Thứ Sáu, 16 tháng 3, 2012

Hội Long Hoa






Long: Rồng, mạch nước, chỉ vua. Hoa: bông. Long Hoa là một cái cây có hình giống như con rồng đơm hoa rực rỡ.


Đức Phật Di-Lạc sẽ đắc đạo dưới cội cây Long Hoa nầy, cũng như Đức Phật Thích Ca đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề.


Đức Phật Di-Lạc sẽ làm Giáo chủ một Đại hội thi tuyển chung kết để chọn người hiền đức dưới cội cây Long Hoa, nên Đại hội nầy được gọi là Đại Hội Long Hoa.
Vậy Đại Hội Long Hoa là hội thi chung kết sau một giai đoạn tiến hóa dài của nhơn loại, để tuyển lựa những người hiền lương đạo đức, loại bỏ những kẻ hung bạo gian tà, thực hiện sự công bình thiêng liêng, để rồi sau đó sẽ chuyển qua một giai đoạn tiến hoá mới.
Những người hiền lương đạo đức là những người thi đậu, sẽ được ban thưởng bằng những phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật tùy theo công đức nhiều ít.
Những người gian tà hung bạo là những người thi rớt nên họ phải chờ đợi và sẽ nhập vào một vận hội mới để học tập và tiến hóa, chuẩn bị một cuộc thi mới sau nầy.
TNHT: Công nghiệp dồi dào, âm chất đủ,
Long Hoa đợi Hội hưởng Thiên ân.
KĐT: Hội Long Hoa tuyển phong Phât vị.

Đạo Cao Đài quan niệm Đại Hội Long Hoa như thế nào?

Càn Khôn Vũ trụ đang tiến hóa, vạn vật đang tiến hóa, và sự tiến hóa sẽ mãi mãi tiếp diễn không ngừng.
Con đường tiến hóa thì vô tận, nhưng được chia ra làm nhiều chặng đường, nhiều giai đoạn, tương ứng với những thời kỳ mở Đạo để dạy dỗ nhơn sanh tiến hóa. Sau một giai đoạn tiến hóa thì Đức Chí Tôn mở ra một cuộc thi để đánh giá (hay phán xét) trình độ đạo đức của nhơn sanh mà ban thưởng cho các phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Từ trước tới nay, Đức Chí Tôn đã mở ra ba thời kỳ phổ độ nhơn sanh: Nhứt Kỳ Phổ Độ, Nhị Kỳ Phổ Độ và hiện nay là Tam Kỳ Phổ Độ. Sau mỗi thời kỳ phổ độ, Đức Chí Tôn mở ra một cuộc thi, gọi là Hội Long Hoa.
1. Nhứt Kỳ Phổ Độ có SƠ HỘI LONG HOA THANH VƯƠNG ĐẠI HỘI, Đức Nhiên Đăng Cổ Phật làm Chánh Chủ khảo.
2. Nhị Kỳ Phổ Độ có NHỊ HỘI LONG HOA HỒNG VƯƠNG ĐẠI HỘI, Đức Phật A-Di-Đà làm Chánh Chủ khảo.
3. Tam Kỳ Phổ Độ có TAM HỘI LONG HOA BẠCH VƯƠNG ĐẠI HỘI, Đức Di-Lạc Vương Phật làm Chánh Chủ khảo.
Đạo ví Đời là một học đường vĩ đại, có đủ tất cả bài học từ thấp đến cao, từ ác đến thiện, từ trược đến thanh, để nhơn sanh học hỏi, chứng nghiệm, trau luyện tâm tánh để tiến hóa, mà Hội Long Hoa là Hội thi tuyển và đề thi là đạo đức.
Đại Hội Long Hoa Kỳ Ba nầy rất quan trọng, vì là kỳ thi chung kết, chấm dứt Đệ Tam Chuyển, bắt qua Đệ Tứ Chuyển mà khởi đầu của Đệ Tứ Chuyển là Thượng Nguơn Thánh Đức.
Cho nên Đại Hội Long Hoa Kỳ Ba nầy có một cuộc biến động dữ dội, để sàng sảy lọc lừa, tuyển chọn những người có trình độ đạo đức tối thiểu mà lập đời Thượng Nguơn Thánh Đức, loại bỏ những phần tử thiếu đạo đức, tức là những phần tử thi rớt. Hội Long Hoa loại bỏ họ bằng cách nào?
Loại bỏ bằng nhiều cuộc chiến tranh tương tàn tương sát dữ dội, rồi đến tai Trời ách nước như: gió bão, hồng thủy, núi lửa, động đất, rồi tới bịnh chướng sát hại.
Số người bị loại bỏ chiếm đến 9 phần 10 nhơn loại, chỉ chừa lại có 1 phần 10 là số người thi đậu để lập đời Thánh Đức.
Do đó, ngay trước khi mở Đại Hội Long Hoa, một cuộc tang thương vĩ đại, biến đổi ghê gớm cục diện thế giới để loại bỏ số 9 phần 10 nhơn loại thiếu đạo đức đó, và cuộc biến đổi vĩ đại nầy được các tôn giáo tiên tri gọi là cuộc Tận Thế.
TNHT: "Kỳ Hạ Nguơn hầu mãn, nhơn vật vì tai nạn mà phải tiêu tan, mười phần chỉ còn lại một mà thôi.
Than ôi ! Buồn thôi ! Nghĩ vì Thiên cơ đã định như vậy, thế nào mà cải cho đặng, duy có mở tấm lòng từ thiện, ăn năn sám hối, lo việc tu hành, đồng với nhau, cả quốc dân mà quì lụy khẩn cầu coi Trời có đoái tưởng đến chăng?
Bởi thế nên Đức Ngọc Đế và chư Phật chư Tiên chư Thánh mới lập Hội Tam Kỳ Phổ Độ đặng cứu vớt chúng sanh đương linh đinh nơi bể khổ. Nếu gặp thuyền Bát Nhã mà không xuống không theo thì chắc thế nào cũng chơi vơi mé biển."
Đợt khảo thí chung kết nầy là kỳ Phán xét cuối cùng, xảy ra vô cùng dữ dội, vì người thi đậu mới được tồn tại, còn người thi rớt phải bị tiêu diệt, để tuyển chọn người đủ bác ái và công bình, thiết lập một xã hội Đại Đồng của thời Thượng Nguơn Thánh Đức.
Đại Hội Long Hoa Kỳ Ba nầy cũng là Đại Hội Điểm Đạo lần ba của Địa cầu 68, là cuộc Điểm Đạo vĩ đại và quan trọng mà tất cả chư Phật, Tiên, Thánh, Thần và những người tiến hóa đủ tiêu chuẩn đạo đức đều phải tham dự.
Sau cuộc biến động dữ dội gọi là Tận Thế đó, địa cầu 68 trở lại yên tĩnh, thời tiết trở lại điều hòa tốt đẹp, trược khí tiêu tan, nhơn loại còn lại là những tân dân hiền lương đạo đức, với hình dung tốt đẹp, mạnh khỏe, sống lâu, tạo lập một xã hội Đại Đồng, cùng sống hòa bình với nhau trong tình bác ái và sự công bình. Chư Thánh Tiên Phật sẽ giáng trần tiếp tục hướng dẫn nhơn sanh tu hành tiến hóa cao thêm nữa.
TNHT: Chừng nào đất dậy Trời thay xác,
Chư Phật, Thánh, Tiên xuống ở trần.
Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo về Đại Hội Long Hoa, đêm 14-1-Kỷ Sửu (1949) tại Đền Thánh, xin chép ra sau đây:
"Long Hoa Hội là gì? Long Hoa Hội là một ngày, một buổi khảo lựa của toàn thể các chơn hồn dầu quỉ vị hay Thần vị cũng vậy, định khoa mục của mình đặng lập vị thiêng liêng.
Chúng ta hiểu rằng, mỗi Chuyển tức nhiên là mỗi khoa mục. Hễ cuối một Chuyển, tức nhiên Hạ Nguơn, là ngày định vị của các đẳng linh hồn. Thánh giáo Gia Tô đã nói rằng: Ngày Xét Đoán cuối cùng (Jugement Général) mà kỳ thật là ngày định vị cho các chư Phật đó vậy.
Có một điều trọng hệ đương buổi nầy là buổi náo nhiệt. Tại sao? Tại mãn Hạ Nguơn Tam Chuyển, Thiên thơ đã định Long Hoa Hội.
Thánh giáo Đức Chí Tôn nói: Các con phải chung cùng nhau, tức nhiên lập Long Hoa Hội, định vị cho các chơn linh trong kỳ Hạ Nguơn Tam Chuyển nầy, định vị cho họ đặng mở Thượng Nguơn Tứ Chuyển cho các chơn linh.
Ngài mở Hội Long Hoa ấy, tức nhiên là Ngài định chấm đậu rớt cho các chơn linh vậy. Vì cớ cho nên chúng ta ngó thấy có huyền vi bí mật nơi mặt thế nầy: Đức Chí Tôn đến mở Đạo ngày nay, chúng ta có thấy oan gia nghiệt chướng phải trả liền buổi nầy, không cho thiếu, trả mãn mới thôi."
Mặt khác, chúng ta quan sát TTTN, thấy bao lơn nơi mặt tiền Tòa Thánh có 4 cây cột chống đỡ, phân làm 2 cặp. Mỗi cặp có một cây đắp hình rồng (Long) quấn cột, một cây đắp hình bông sen (Hoa) quấn cột, nên mỗi cặp cột tượng trưng hai chữ LONG HOA. Còn trên nóc HTĐ, giữa 2 lầu chuông trống là tượng Đức Phật Di-Lạc ngự tòa sen đặt trên mình cọp.
Đức Hộ Pháp thuyết đạo về Đại Hội Long Hoa tại Hộ Pháp Đường, ngày 16-9-Ất Mùi (dl 31-10-1955), giảng giải bài Kinh Đại Tường, có đoạn kết, chép ra sau đây:
"Tới năm Tý sẽ mở Hội Long Hoa tuyển phong Phật vị tại Tòa Thánh Tây Ninh nầy. Mấy em phải cố gắng làm cho kịp. Qua nói quả quyết nếu mấy em làm không kịp, qua có qui liễu trước đi nữa thì cái tội ấy về mấy em chớ không phải về Qua, nhớ điều đó. Qua cố gắng tận trung cùng Đạo, tận hiếu cùng Chí Tôn và Phật Mẫu, Qua chỉ ước cho thiêng liêng của mấy em đây nè, nó sẽ hưởng được một điều trọng yếu không biết ngày nào giờ nào, Qua không có thế vì quyền vi định trước được. Qua mơ ước làm thế nào cho dòng máu thiêng liêng của mấy em đây nó gặp mặt Đức Chí Tôn đến tại thế nầy, lấy một quyền năng thiêng liêng của Ổng, như Ổng đã đến Đền Thờ Tây Tạng kia vậy. Hễ nói đến Đền Thờ Tây Tạng thờ Đức Chí Tôn, thì đều nghe hiểu.
Có lẽ Đền Thánh nầy Đức Chí Tôn thế nào cũng đến, lại chưa đến là vì lẽ gì? Lý do vì chưa có trọn sao đây, mấy em cố gắng đi, từ đây tới sau, cho tới ngày Long Hoa Đại Hội, hoặc nên hư đặng thất điều gì, Qua lập Long Hoa Đại Hội được hay chăng, Qua phú thác nơi tay mấy em đó vậy."
TÓM LẠI:

1. Đại Hội Long Hoa là một cuộc thi cần thiết để tuyển chọn người đủ đạo đức trong thời kỳ cuối Hạ Nguơn Tam Chuyển để bước qua Thượng Nguơn Tứ Chuyển, tạo lập đời Thượng Nguơn Thánh Đức với một xã hội Đại Đồng.
2. Những người bị loại khỏi Đại Hội Long Hoa là những người thiếu đạo đức, không đủ Bác ái và Công bình. Họ phải bị chậm trễ một kỳ tiến hóa, chờ đợi để học lại các bài học và nhập vào một giai đoạn tiến hóa sau.
3. Tỷ lệ tuyển chọn trong Đại Hội Long Hoa Kỳ Ba nầy là 1 phần 10, nghĩa là 10 phần nhơn loại chỉ đậu 1, rớt 9 phần.
4. Đại Hội Long Hoa Kỳ Ba nầy sẽ mở ra tại Tòa Thánh Tây Ninh và Đức Di-Lạc Vương Phật làm Chủ Đại Hội.

8 nhận xét:

  1. Ông Sư-Vãi không ngần-ngại mà cho biết là Hội Long-Hoa sẽ được mở ra để chọn người hiền-đức, vì đời Thượng-Nguơn là đời vô cùng đẹp-đẽ, một xã-hội của người hiền, không còn kẻ ác. Sở dĩ Hội Long-Hoa lập ra là để chọn người hiền vậy:

    Bởi trần lỗi quá muôn phần,

    Cho nên lập Hội Long-Hoa chọn người.

    Hiền-từ thời đặng thảnh thơi,

    Nghinh-ngang khó trốn lưới Trời bớ dân !

    Lưới hồng bủa khắp cõi trần,

    Chuyển luân bát-quái còn trông nỗi gì !

    Hạ-Ngươn sau chót xét suy,

    Sự vong nào có khác chi sự tồn.



    Nhưng cho được đi đến Hội Long-Hoa và được chọn chẳng phải là một việc dễ. Vì là một trường thi để chọn người hiền, cho nên trước khi đi đến Hội Long-Hoa phải trải qua bao nhiêu giai-đoạn thảm sầu ghê gớm. Đây là những báo hiệu của thời Hạ-Nguơn:

    Hạ-Nguơn này thể như bèo,

    Nay còn mai mất hiểm nghèo thon-von,

    Lớp thì bịnh tật gầy mòn,

    Lớp thời bão lụt nhân dân khốn nàn,

    Lớp thời sưu thế đa-đoan,

    Lớp kia lớp nọ khổ nàn biết bao.

    Lớp thời tà quỉ lao xao,

    Xui mưu làm loạn hại dân muôn ngàn.

    Lớp nào là giặc nổi lên đánh tứ tung, không còn biết nơi nào mà tránh:

    Giặc thời tứ hướng vậy thì,

    Nhiều nước dị-kỳ khác chẳng giống nhau.

    Vừa chạy vừa khóc như mưa,

    Trốn đâu cho khỏi binh ngừa bốn phương.

    Nào là cha con chồng vợ lạc nhau, nhà tan cửa nát:

    Làm cho nhiều việc tiêu điều,

    Muôn ngàn thiên-hạ chín chiều thon-von,

    Kẻ thời khóc mẹ kiếm con,

    Ruộng trâu đã hết chẳng còn món chi,

    Cửa nhà tan nát vậy thì,

    Đất bằng sấm dậy còn gì Trời ơi !

    Thiên-hạ chết như bèo trôi sông :

    Ngồi trên đỉnh núi cheo leo,

    Thấy trong thiên-hạ như bèo trôi sông.



    Và phần nhiều những người xấu số ấy, theo ông Bán-Khoai, là những người hung ác:

    Đứa dữ chết đuối chết đường,

    Lớp đau lớp chết xóm làng tan hoang.

    Thấy nằm như thể làng-cang,

    Nhà giàu thì lại tan hoang hơn nghèo.



    Nhưng ngoài cuộc tàn-sát bằng chiến-tranh do loài người gây ra, còn nhiều tai trời ách nước nữa, như nạn nước lụt, lửa cháy khắp trời:

    Truyền rao chẳng biết mấy lần,

    Thương đời trần hạ muôn phần lao-đao.

    Nước đâu ngập lút gò cao,

    Lửa đâu dậy cháy lao xao khắp ngàn.

    Cảm thương trần hạ lăng-xăng,

    Mắc trong nước lửa biết đường là đâu ?

    Thứ lửa nó bay trên cao,

    Đến đâu cháy đó chỗ nào cũng tiêu.

    Lại còn âm-binh nhiễu-hại:

    Lại có một mối âm-binh,

    Làm đau nhiều chứng trong mình chẳng an.

    Kẻ thời nát ruột nát gan,

    Người lại nát thịt tan xương chẳng còn.

    Lại còn ác thú giết người không biết bao nhiêu mà kể:

    Những kẻ hung ác chẳng bền,

    Hổ lang ác thú bắt rày chẳng tha,

    Thịt xương ăn bỏ dẫy đầy,

    Nói cho bá tánh đời này tu thân.



    Mà lại là những thứ ác thú kỳ hình dị trạng chưa từng thấy:

    Thú sao nhiều thứ dị kỳ,

    Biết sao cho hết khác thì thú nay.

    Lớp bay lớp chạy lăng-xăng.

    Chừng đó cầu nguyện Phật ngừa đặng đâu.

    Trả lờiXóa
  2. Những cảnh-tượng ghê rợn ấy thật là ngoài sức tưởng-tượng của con người. (Nhưng rồi đây chúng ta sẽ thấy nhà học giả duy vật Hồ Hữu tường giải thích bằng phương pháp khoa học)

    Khi xảy ra bao nhiêu cảnh tượng rùng rợn, con người sẽ ra sao và cuộc đời sẽ ra thế nào ?

    Ông Sư-Vãi Bán-Khoai cho biết rằng trong lúc hỗn-loạn chiến- tranh giữa loài người thì có điềm Trời xuất hiện. Cái điềm đó sẽ kinh Thiên động Địa, bởi nó là những tiếng sấm nổ:

    Thương thay trần hạ hết tình,

    Sấm Trời sao lại thình-lình nổ ra.

    Chừng ấy mới thấy quỉ ma,

    Ai lành ai dữ, ai là Phật, Tiên ?

    Chừng nào tiếng sấm nổ ra,

    Thời là lành dữ kẻ tiêu người còn.

    Nói ra nghĩ lại héo don,

    Lành còn dữ mất khác rày với nhau.



    Tiếng sấm ấy sẽ làm cho nhiều hòn núi phải vỡ, nhiều cù-lao, đất liền phải sụp. Quả địa-cầu vì đó mà thay hình. Chính trong lúc đó thì súng không còn nổ.

    Đến đâu súng nổ đá chai,

    Nói cho già trẻ gái trai hay mừng.



    Có phải chăng, vì thấy loài người dùng súng giết hại nhau, nay đá nổ nó phải chai không còn bắn giết được nữa, mà ông Bán-Khoai gọi đó là một điều mừng. Và ông còn báo một tin kinh ngạc khác nữa:

    Nói cho già trẻ lo âu,

    Minh-Vương khôi phục Hớn-Châu Phong-Thần.

    Rán mà tu niệm ân cần,

    Đặng mà coi Hội Long-Vân trên Trời.

    Ở trên mây bạc giữa vời,

    Tiêu thiều ca xướng khác nào Trường-An.

    Chính là lúc Phật, Tiên lập Hội Long-Hoa để chọn người hiền đức:

    Phật trời nói chẳng sai lời,

    Long-Hoa là Hội Phật Trời lập ra.

    Lập rồi cái Hội Long-Hoa,

    Chọn người tu niệm đặng mà bao nhiêu ?

    Chọn lựa coi thử ít nhiều,

    Người lành kẻ dữ còn tiêu kẻ nào ?



    Như thế Hội Long-Hoa có thể gọi là một Hội chọn người hiền. Nhơn-loại vì đó phải trải qua bao nhiêu tai Trời ách nước, chịu một cuộc sàng sảy ghê gớm:

    Sàng qua sảy lại bằng nay,

    Hết xấu tới tốt hết vong tới tồn.

    Chẳng qua là để chọn cho thiệt người hiền đức :

    Gạn cho hết đục tới trong,

    Thương thay đồ-đệ hết lòng chẳng buông.

    Lựa đồng mà đúc lấy chuông.

    Lựa người hiền-đức mà thương lâu dài.

    Nhưng sau cuộc sàng sảy chọn lựa, người hiền-đức còn lại chẳng có bao nhiêu. Ông Sư-Vãi cho biết trong mười người chỉ còn có hai người:

    Tôi buồn bốn phía không yên,

    Kẻ dữ hết tám người hiền còn hai.

    Và chỉ có hạng người hiền mới được đi đến Hội Long-Hoa :

    Cuộc đời quả thiệt hẳn-hòi,

    Hội mười tám nước tôn Vương Đế-Hoàng.

    Đặng coi cái Hội Long-Hoa,

    Chọn người tu niệm Hoàng-gia tôn thần.

    Lại còn cái Hội Long-Vân,

    Quân thần cộng lạc thảy đều vui chơi,

    Người lành mới đặng thảnh thơi,

    Hoa, Vân hai Hội chúa tôi vui vầy.

    Được đi đến Hội Long-Hoa đã là diễm-phúc rồi, thế mà ông Bán-Khoai còn cho biết người nhân-đức được một diễm phúc-nữa:

    Tu hành nhân-đức thì hơn,

    Thay hồn đổi xác nhờ ơn Cửu-trùng.

    Hết tục rồi lại đến Tiên,

    Giữ lời Phật dạy mới yên mới lành.

    Trả lờiXóa
  3. Chính đến lúc đó mới là đời Thượng-Ngươn, mở ra một thời-kỳ thái-bình vĩnh-viễn. Ông Sư-Vãi cho biết:

    Chừng nào núi Cấm quá lầu,

    Thời là bá-tánh đâu đâu thái-bình.



    Ông không dứt nhắc đi nhắc lại hiện tượng này cho chúng-sanh để ý:

    Chừng nào Bảy Núi thành vàng,

    Thì là mới được thanh nhàn tấm thân.



    Nhưng điều mà ông Sư-Vãi Bán-Khoai vui mừng là khi thời-kỳ Thượng-Nguơn đã lập, nước Nam sẽ là một nước diễm-phúc nhứt trên quả địa-cầu:

    Nước Nam như thể cái lầu,

    Ngày sau các nước đâu đâu phục tùng.



    Sở-dĩ nước Nam được diễm-phúc là vì cơ Trời đã định cho nước Nam là cõi Trung-ương, nghĩa là trung tâm của nền văn minh Thượng-Nguơn sau này. Chính vì được cái diễm-phúc đó mà chư Phật, chư Tiên đều lâm-phàm ở nước Nam:

    Bấy lâu Phật ở xa ngàn,

    Bây giờ Phật lại bước sang Nam trào.

    Hoặc giả:

    Bấy lâu Phật ở nước Tần,

    Bây giờ Phật lại trở lần về Nam.



    Và cũng vì nước Nam có diễm-phúc mà ông Sư-Vãi Bán-Khoai vưng lệnh Phật đi phổ-hóa khắp nơi. Ông rất đau khổ mà thấy đời không chịu nghe. Ông thường than-van:

    Chừng nào đến việc biết đời,

    Bây giờ không thấy nó thời không nghe.

    Hay là:

    Cõi trần nhiều kẻ thị khinh,

    Thấy đời chưa đến biết chi làm lành.



    Nhưng ông quả-quyết là sẽ có. Cho nên muốn cho đời tin, ông thề rất tha-thiết:

    Bấy lâu nói trước mà sau,

    Bây giờ nói chuyện mau mau tới rồi.

    Như ai mà có nghi ngờ,

    Tôi thề chứng có Phật Trời nào sai.



    Ông bảo cứ làm theo lời dạy, rồi đây coi sẽ có hay không cho biết:

    Khuyên hết lớn nhỏ ai ai,

    Giữ theo lời dạy nay mai coi đời.



    Ông còn cẩn-thận mà dặn trước: nếu không tin sau này mang họa đừng có trách sao ông không có dạy trước:

    Mấy bài khuyên khắp Đông Tây,

    Nói cho nam nữ đặng hay giữ mình.

    Nếu ai mà chẳng có tin,

    Rồi sau mang hoạ chớ tình trách than.



    Thật là những lời đầy lòng thương sót; nhưng chúng-sanh có tin chăng ? Riêng đối với tín-đồ phái Phật-Thầy thì những điều nói trên không còn xa lạ, bởi nhiều điều tiên-tri của ông đã được xác-nhận và đương thực-hiện.

    Đây là lời tiên-tri của ông về nước Tàu, tiên-tri gần một trăm năm nay:

    Thương thay Trung-quốc chẳng lành,

    Bị Phù-tang nhiều cách khổ hành lê dân.

    Nhưng mà Trời chửa định phân,

    Cho nên Trung-quốc lo cầu các nơi.



    Và đây là lời tiên-tri về Việt Nam:

    Nói cho thiên hạ đặng tường,

    Rán mà tu niệm khỏi đường đao binh.

    Giặc kia phía Bắc chiến chinh.

    Tu nhân thì đặng Thần linh hộ mình.



    Mà tại đâu Trung-quốc bị nạn và nhờ đâu Việt-Nam được diễm-phúc, ông Ba-Thới, một môn đệ của phái Phật-Thầy sẽ nói rõ.

    Trả lờiXóa
  4. Cô Trúc- lâm-nương cũng giải-thuyết rằng: thời-kỳ này là thời-kỳ mạt-pháp, cuộc đời sẽ tiến đến cơ tiêu-diệt. Mà đó cũng chẳng qua là luật tuần-hoàn đã định, vì chúng-sanh quá đắm say trần trược, gây quá nhiều quả báo, cho nên hễ vay nhiều thì phải trả nặng. Trong bài “Nhân, Xuân vấn đáp”, cô mượn lời xuân mà tỏ bày cái lý siêu-mầu ấy:

    Thiện Nhân hỡi! đôi lời ta xin gởi,

    Cuộc tuần-hoàn tạo-hóa đã định phân.

    Vì chúng-sanh say đắm vị hương trần,

    Thời mạt-pháp, vay nhiều nên trả nặng.

    Và để cứu vớt chúng-sanh trong thời-kỳ mạt-pháp, các đấng Phật, Thánh, Tiên lâm-phàm và xuất-hiện ở nước non nhà. Cô Trúc-lâm-nương cũng mượn lời Xuân để đáp:

    Là tri-kỷ, đôi lời ta xin nhắn,

    Phật, Thánh, Tiên xuất-hiện nước non nhà.

    Độ chúng-sanh, giữ vững khắp san-hà,

    Đời mạt-pháp hoằng khai thành chánh-pháp.

    Chính nhờ phép mầu của Phật, Thánh, Tiên mà các hùng binh đều giải giáp. Thánh Chúa xuất-hiện lập lên đời Thương-Ngươn rực rỡ:

    Cơ mầu-nhiệm hùng-binh đều giải giáp,

    Đời Thượng-Ngươn rực-rỡ ánh mây hồng.

    Khắp bầu Trời tỏ rạng bóng Lạc-Long,

    Cùng Chúa Thánh điểm tô sông núi Việt.

    Trong các Sấm Giảng cho biết rằng: trước khi đi đến Hội Long-Hoa, loài người phải điêu-linh về tai trời ách nước, như nạn binh đao, nạn sấm nổ, nạn lửa trời, nạn Đại Hồng-thủy…

    Thì đây cô Trúc-lâm nương cho biết những biến-cố xảy ra từ đây đến ngày Hội Long-Hoa và lập đời Thượng-cổ.

    Chúng tôi xin tuyển chọn những bài trong đó cô có nói đến sấm nổ:

    Bão tố đầy trời ngoại xứ Âu,

    Nước tràn lợp đất đổ nghiêng bầu.

    Đau lòng bạt gió chim sa bẩy,

    Não dạ mê mồi cá mắc câu.

    Rồng lộn sông vàng mây tái mặt,

    Sấm rền rừng thẳm núi tơi đầu.

    Việt-Nam tỏ rạng màu Anh Thánh,

    Rưới đức năm châu, chủ bá hầu.

    Câu “Sấm-rền rừng thẩm núi tơi đầu” đủ mô-tả cảnh-tượng khi sấm nổ thì núi phải vỡ tan, như các Sấm-Giảng đã nói.

    Về nạn nắng lửa mưa dầu, cô Trúc-lâm-nương có đề-cập đến trong bài thơ dưới đây:

    Đốt nén tâm hương tựa mái lầu,

    Đoái nhìn khói lửa khắp năm châu.

    Mây giăng chẳng phủ bao giòng lệ,

    Trăng tỏ khôn soi mấy đoạn sầu.

    Xót bấy nạn dân chan nắng lửa,

    Thương thay ách nước đẫm mưa dầu.

    Cơ Trời mầu-nhiệm cơ huyền định,

    Tiếng khóc nhơn sinh tiếng khóc đầu.

    Trả lờiXóa
  5. Và đây bài thơ cô có nói đến nạn lửa Trời và Hồng-Thủy:

    Bốn phương cùng động can-qua,

    Tìm cho được chốn Tam-Hòa bảo thân.

    Có lời nhắn khách tu chân,

    Đừng ngơ-ngác giữa đàng trần mà nguy.

    Cuộc thế suy, lòng người suy,

    Đông Nam đại loạn chia ly muôn phần.

    Lửa trời hực cháy rần rần,

    Hồng-thủy nước xoáy, xoay vần càn khôn.

    Tìm cho đến Bảo-giang môn,

    Là nơi Chúa Thánh Chí-Tôn tọa thiền.

    Cầu xin được phép diệu-huyền,

    Hài-vân thoăn-thoát đến miền Đế-kinh.

    Đợi thời trăng lặng bể kinh,

    Long-Hoa thành-tựu phỉ-tình ngao-du.

    Về Hội Long-Hoa cô Trúc-lâm-nương có bài thơ sau đây, với câu khoán thủ: Long-Hoa Đại-Hội hợp nhứt Linh-căn”.

    Long môn Di-Lặc ngự tòa sen,

    Hoa quí Quan-Âm tọa trước đèn.

    Đại mở chơn thần nhuần thạch thủy,

    Hội hòa kim tánh đượm hương sen.

    Hợp hoàn chín cõi trên thềm ngọc,

    Nhứt thống năm châu dưới ánh đèn.

    Linh diệu phép mầu qui một mối,

    Căn nguyên huờn bổn thắm mùi sen.

    Trong bài thơ này cô chỉ dùng hai vận: sen và đèn, cũng là một lối thơ rất khéo như thơ độc vận.

    Cũng như Sấm-Giảng, cô Trúc-lâm-nương cho rằng giống dân Lạc-Hồng sẽ trổ mặt, bình trị bốn phương, các nước đều lai đầu Minh-Chúa:

    Non tòng vị thắm chảy tràn Âu,

    Bát-ngát hương bay khắp trọn bầu.

    Đương lúc gió đùa cây đổi lá,

    Giữa mùa sóng bủa cá vương câu.

    Ra nhân mở khóa năm châu hội,

    Trổ đức khai cơ tám hướng đầu.

    Hồng-Lạc làu làu lòa ngọc chiếu,

    Bốn phương bình trị đến Minh hầu.

    Trả lờiXóa
  6. Cô Trúc-lâm-nương cho rằng khi Hùm sa lưới và Ngạc vướng câu, ám chỉ hai cường quốc tranh-hùng mong bá-chiếm hoàn-cầu thì giống dân Lạc-Hồng qui-phục được năm cõi mà lập nên đời Nghiêu Thuấn:

    Thuyền giác muốn chèo đến bến Âu,

    Đón đưa căn quí hội chung bầu.

    Bởi xa rừng Thánh, Hùm sa lưới,

    Vì đắm bến trần, Ngạc vướng câu.

    Rối dạ gió đùa dân tản lạc,

    Thỏa lòng biển cạn nước quây đầu.

    Ai hay Hồng-Lạc qui năm cõi,

    Đất Thuấn Trời Nghiêu tụ bá hầu.

    Phụ họa theo Sấm-Giảng, cô Trúc-lâm-nương nhận rằng đến thời-kỳ lập đời Thượng-Nguơn, đất Thuấn Trời Nghiêu, thì tam giáo qui nguyên, Đức Phật Di-Lặc ra hoằng-khai chánh-pháp, qui tụ thất thập nhị hiền, tam thiên đồ-đệ:

    Lập đời Thượng-Cổ đạo cao thâm,

    Tam giáo qui nguyên định chẳng lầm.

    Chánh-pháp hoằng-khai, ngôi Di-Lặc,

    Quần tu phổ-độ: sắc Quan âm.

    Tam thiên ngũ hiệp qui lai thế,

    Thất thập nhị hiền tụ giáng lâm.

    Bốn hướng tuần du công Thánh-mẫu,

    Bàn đào mở hội đón linh căn.

    Chính đó là thời-kỳ bình-trị muôn dân lạc-nghiệp âu ca. Chừng đó mới biết nhà Nam có Bảo-Hà, giống dân Lạc-Hồng rỡ-rỡ:

    Lạc-Hồng rỡ-rỡ chốn triều-ca,

    Mới biết nhà Nam có Bảo-Hà.

    Xích-tử ra đời an vạn quốc,

    Hào-quang chói rạng khắp gần xa.

    ***

    Xà chuyển ánh hồng rọi sắc long,

    Mới hay cháu phụng với con rồng.

    Càn khôn chuyển máy âm dương định,

    Rực rỡ muôn năm ánh Lạc-Long.

    ***

    Thượng-cổ lai huờn dấu Lạc-Long,

    Huyền-cơ xoay chuyển rực trời hồng.

    Vân môn, Trước-địa tri thiên lý,

    Hội chốn Bảo-Hà mới rõ thông.

    Nhưng chốn Bảo-Hà cũng gọi là Bảo-Giang ở đâu? Chính đó là bí-quyết để tìm ra chỗ Thánh-Vương xuất, mà cô Trúc-lâm-nương thường thử-thách:

    Đố ai biết Bảo-giang môn?

    Là nơi Thánh-địa Thiện-tôn định phần.

    Làu làu ngọc chiếu cảnh trần,

    Là nơi Tiên, Phật, Thánh, Thần xuất thân.

    Xuất kim thân, hóa kim thân,

    Ly nơi Đồng thổ xoay vần Tây-phương.

    Về danh-từ Bảo-giang hay Bảo-hà, chúng ta thấy cô Trúc-lâm-nương vẫn nhắc đến luôn. Nhưng Bảo-giang ở đâu?

    Danh từ Bảo-giang có phải là danh-từ mới lạ không? Nếu ai có nghiên-cứu về Sấm Trạng-Trình, chắc nhận thấy danh-từ Bảo-giang hay Bảo-giang môn được lặp đi lặp lại mãi.

    Đây chúng tôi xin trích ra một vài đoạn có nói đến Bảo-giang như:

    Lại nói sự Hoàng-giang sinh Thánh,

    Sông Bảo-giang Thiên định ai hay?

    Hoặc là:

    Trí xem nhiệm nhặt cho tường,

    Bảo-giang Thánh xuất Trung-ương thuở này.

    Hay là:

    Bảo-giang Thiên-tử xuất,

    Bất chiến tự-nhiên thành.

    Cũng cho biết Bảo-giang là nơi xuất Thánh và Thánh xuất ở Trung-Ương, nhưng không chỉ Bảo-giang là ở nơi nào.

    Sở-dĩ chúng tôi đem đối-chiếu mấy đoạn văn của Sấm Trạng-Trình với những danh-từ của cô Trúc-lâm-nương đã dùng là để cho ta thấy cô Trúc-lâm-nương chịu ảnh-hưởng của Sấm Trạng-Trình rất nhiều.

    Chẳng những về danh-từ, cô Trúc-lâm-nương chịu ảnh-hưởng của Sấm Trạng-Trình mà về sự nhận định thời-cơ, chúng tôi cũng thấy cô ngã theo Sấm Bạch-Vân và các Sấm Giảng.

    Đây chúng ta hãy đọc bài này của cô Trúc-lâm-nương:

    Xà chuyển long thăng Thánh xuất trần,

    Còn chờ thân dậu mới an dân.

    Ngọ mùi thảm họa sầu không tả,

    Thìn tỵ can qua khổ chẳng phân.

    Phất phới cờ hồng xâm đất Việt,

    Chập chồng xương trắng ngất non Thần.

    Mưa dầu nắng lửa mười năm chẵn,

    Nước nảy tôi hiền trổ Chúa nhân.

    Như thế chúng ta thấy không xa với Sấm Giảng và Sấm của Trạng-Trình về bài “Long vĩ xà đầu khởi chiến-tranh”, nhưng có điều cô nói rõ về việc qui kỳ Thánh-vương xuất-hiện.

    Cô rất tha-thiết trong mong Thánh-vương xuất-hiện, trong bài thơ khoán thủ dưới đây:

    Chí khí công minh chí nguyện thành,

    Tâm hòa ý đẹp nhứt tâm sanh.

    Mộng người Đại-đức nơi thềm ngọc,

    Tưởng kẻ từ-bi chốn cửa thanh.

    Thánh đạo nghiệp duyên còn chọn đón,

    Vương minh ngôi vị sẵn riêng dành.

    Xuất năm rồng giỡn cùng non nước,

    Hiện giữa trời Nam một giống lành.

    Trả lờiXóa
  7. Long Hoa đã ra đời lâu rồi! Đạo cao đài biết nhưng chưa tin. Sau sẽ tin.

    Lại nói sự Hoàng Giang sinh Thánh
    Hoàng phúc xưa đã định Tây Phong.

    Hoàng Giang là con sông vàng, bên Mỹ có tiểu bang califoria nổi tiếng có loài hoa vàng(Golden State) trải dài như 1 con sông vàng rất đẹp nên Califoria còn có biệt danh Tiểu Bang Vàng

    Hoàng phúc rõ ràng chỉ hoàng thất, hoàng tộc triều đình. Xưa ý nói đã xảy ra trong quá khứ. Tây phong, xưa thời Tam Quốc có Nước Thục ở phía Tây Phong. Vậy, ta có thể đoán vị thánh này một kiếp là Lưu Bị.

    Thời hiện đại, vị thánh này đang ở bên Mỹ, thường xuyên tới California và đã đắc quả xuất thế ở nơi này.

    Chọn đầu thai những vì sao cả
    Dùng ở tay phụ tá vương gia
    Bắc phương chính khí sinh ra
    Có ông Bạch sĩ điều hoà hôm mai


    Vì sao cả ý nói một trong những ngôi sao lớn nhất trên bầu trời hiểu là một trong những cường quốc mạnh 1 trên thế giới. Đây nói đến nước Mỹ.
    Phụ tá vương gia là vị thánh này sẽ giúp đỡ nước Mỹ vượt qua cuộc sàng lọc này hình thức là chiến tranh thế giới thứ 3. Gọi Mỹ là vương gia không phải vương vì vương ở đây sau này là Việt Nam
    Bắc phương ở trên hiểu xuống là bắc Mỹ, bang Califoria đây là nơi mở ra thời thượng kiếp.
    Vị thánh ở nơi này luôn giúp đỡ mọi người trong vùng được an vui, không thiên tai, tại nạn lớn. Bạch sĩ hiểu sơ là người tu sĩ áo trắng hoặc tâm vị này thánh thiện vô cùng

    Cùng nhau khuya sớm dưỡng nuôi
    Chờ cơ sẽ mới ra tài cứu dân

    Đã chuẩn bị xong rồi! Chờ thời điểm đến vị thánh này sẽ xuất hiện ở nhân sinh để giúp dân khỏi lửa lầm than

    Ở đâu đó anh hùng hẳn biết
    Xem sắc mây đã biết thành long
    Thánh nhân cư có thụy cung
    Quân thần đã định gìn lòng chớ tham

    Ám chỉ người tu chân chánh biết nơi Di Lạc hạ sanh

    Hễ trời sinh xuống phải thì
    Bất kỳ chi ngộ màng gì tưởng trông

    Kìa những kẻ vội lòng phú quí
    Xem trong mình một thí đều không
    Ví dù có gặp ngư ông
    Lưới chài đâu sẵn nên công mà hòng

    Tạm thời như thế đã! Bye trước nhe

    Trả lờiXóa
  8. Bởi trần lổi quá muôn phần
    Cho nên lập hội long vân chọn người
    Hiền từ thì được thảnh thơi
    Nghênh ngan khó tránh lười trời bớ dân
    Lưới trời bủa khắp cỏi trần
    Chuyển luân bát quái còn trông nổi gì
    Hạ ngươn sau chót sét suy
    Sợ vong, nào có khác gì sợ ma
    Phật ma trà trộn trong ta
    Ai mà kém đức nó đà hốt luôn

    Thay Nam Hau

    Trả lờiXóa


♦ Mời bạn gửi Nhận xét của mình. Bạn nên có tài khoản Blogger-Google . Bạn vui lòng gõ tiếng Việt có dấu bằng cách dùng Unikey hay Vietkey .

♦ Bấm vào Xem trước [Preview] bên dưới khung nhận xét nếu muốn xem trước comment đã viết, trước khi post [đăng]. Tương tự, bấm vào Đăng ký qua email [Subscribe by email] để đăng ký theo dõi nhận xét của bài này.

♦ Các bạn tự chịu trách nhiệm với Nhận xét của mình. Nhận xét để phản hồi, đánh giá, góp ý.... suy nghĩ của bạn. Ban biên tập có thể biên tập nội dung comment của bạn theo tiêu chí chung.