Thứ Năm, 15 tháng 3, 2012

Những câu chuyện đạo



Phật có hằng hà sa số phật. Vậy phật là đẳng linh hồn cao nhất trong quá trình tiến hóa của chúng sanh. Đạt được quả vị phật mới hiểu được qui luật của trời đất .Đấng đã sinh ra,tạo nên qui luật để cho chúng sanh học hỏi tiến hóa...thử tham khảo một bài về Phật mẫu hay Diêu trì Kim Mẫu hay Diêu trì địa Mẫu nhé :

Ðức Phật Mẫu là ai ?


Theo Vũ trụ quan của Ðạo Cao Ðài, khi chưa có Trời Ðất, còn trong thời kỳ Hỗn Mang hay Hồng Mông, trong vũ trụ chỉ có một chất khí đương hỗn độn, mờ mờ mịt mịt, lặng lẽ vô vi, thanh trược hỗn hợp, nhưng vô cùng huyền diệu, gọi là Khí Hư Vô (còn gọi là Hư Vô chi Khí hay Tiên Thiên Hư Vô chi Khí) .
Khí Hư Vô ấy lần lần ngưng kết rồi nổ ra một tiếng thật lớn, sanh ra một khối Ịại Linh Quang, cũng gọi là Thái Cực, trọn lành trọn tốt, toàn tri toàn năng, thiên biến vạn hóa, vô tận vô cùng, quyền hành thống cả Càn khôn Vũ trụ.

Vũ trụ từ đây bắt đầu có một ngôi Thái Cực, duy nhứt, và Ðấng Thống quản ấy được gọi là Ngọc Hoàng Thượng Ðế mà chúng ta thường gọi là Ðức Chí Tôn.
Ðức Chí Tôn phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi : Dương Quang và Âm Quang. Ðức Chí Tôn chưởng quản Khí Dương Quang, còn Khí Âm Quang chưa có ai chưởng quản, vì Càn khôn Vũ trụ lúc bấy giờ chỉ có một mình Ịức Chí Tôn mà thôi. Ịức Chí Tôn mới hóa thân ra Ðức Phật Mẫu để chưởng quản Khí Âm Quang.

Vậy, nguồn gốc của Ðức Phật Mẫu là một hóa thân đầu tiên của Ịức Chí Tôn để làm chủ Khí Âm Quang, cầm phân nửa quyền lực của Ðức Chí Tôn và luôn luôn tùng theo mạng lịnh của Ðức Chí Tôn. (Khi Ịức Chí Tôn tạo dựng ra Càn khôn Vũ trụ tới đâu thì Ịức Chí Tôn tiếp tục hóa thân ra các Ðấng khác để chưởng quản tới đó) .
Vũ trụ tới đây đã có 2 khối chất khí vĩ đại là Dương Quang và Âm Quang, và có 2 Ðấng đầu tiên cầm quyền Càn khôn Vũ trụ là Ðức Chí Tôn và Ðức Phật Mẫu.
Sau đó, Ðức Phật Mẫu vâng lịnh Ðức Chí Tôn, thâu lằn sanh quang của ngôi Thái Cực, rồi đem Âm Quang phối hợp với Dương Quang để tạo hóa ra các từng Trời, các quả Tinh cầu và các Ðịa cầu, tạo thành Càn khôn Vũ trụ.

Tiếp theo, Ðức Phật Mẫu tạo hóa ra Vạn linh nơi cõi Thiêng liêng Vô hình. ( Vạn linh gồm đủ Bát hồn : Kim thạch hồn, Thảo mộc hồn, Thú cầm hồn, Nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn, Phật hồn ) .

Rồi Ðức Phật Mẫu lại cho Vạn linh đầu kiếp xuống các Ðịa cầu tạo thành Vạn vật, tức là Chúng sanh. ( Chúng sanh gồm : Kim thạch, Thảo mộc, Thú cầm, Nhơn loại ) .
Phật Mẫu Chơn Kinh :

Bát hồn vận chuyển hóa thành chúng sanh.(vật chất hồn,thảo mộc hồn,thú cầm hồn,nhân hồn,thần hồn,thánh hồn,tiên hồn và phật hồn)

— Mỗi một người nơi cõi thiêng liêng đều có 2 thể :
— Một Chơn linh, tức là Linh hồn, do Ðức Chí Tôn ban cho. Chơn linh nầy chỉ là một điểm Linh quang do Ðức Chí Tôn chiết ra từ khối Ðại Linh quang của Ngài, ban cho mỗi người để con người có được Tánh linh, có được sự sống và biết gìn giữ sự sống ấy.
— Một Chơn thần, tức là một Xác thân thiêng liêng hay Hình hài thiêng liêng, do Ðức Phật Mẫu tạo ra và ban cho để làm hình thể vô vi, bao bọc Chơn linh.

Do đó, con người nơi cõi thiêng liêng gọi Ðức Chí Tôn là Ðại Từ Phụ, gọi Ðức Phật Mẫu là Ịại Từ Mẫu. Ấy là 2 Ðấng CHA MẸ chung thiêng liêng vĩ đại nơi cõi Hư linh.
Khi con người ấy đầu kiếp xuống cõi phàm trần thì Chơn linh và Chơn thần của người ấy liền nhập vào thai nhi ngay lúc được sanh ra từ trong bụng bà mẹ phàm trần. Vậy :

— Một con người nơi cõi phàm trần có 3 thể :
— Chơn linh (đã giải ở trên) do Ðức Chí Tôn ban cho .
— Chơn thần (đã giải ở trên) do Ðức Phật Mẫu tạo ra .
— Xác thân phàm trần do cha mẹ phàm trần tạo ra .

Như thế, một con người nơi cõi phàm trần có, ngoài 2 Ðấng CHA MẸ chung thiêng liêng, còn có thêm 2 vị cha mẹ phàm trần nữa.

Tóm lại, toàn cả chúng sanh trong Càn khôn Vũ trụ hay toàn cả Vạn linh, đều là con cái của Ðức Chí Tôn và Ịức Phật Mẫu, dầu cho đó là những vị Phật cao siêu như Ðức Phật Thích Ca, Ðức Di-Lạc Vương Phật, Ðức Lão Tử, Ðức Khổng Tử, Ðức Chúa Jésus, vv ... cũng đều là con cái của Ịức Chí Tôn và Ịức Phật Mẫu.
Hiện nay, Ịức Phật Mẫu ngự tại Cung Diêu Trì, ở từng Trời Tạo Hóa Thiên, là từng Trời thứ 9 trong Cửu Trùng Thiên.

Theo Di-Lạc Chơn Kinh, Ịức Phật Mẫu cùng các vị Phật : Quảng Sanh Phật, Dưỡng Dục Phật, Chưởng Hậu Phật, Thủ Luân Phật, cùng với Cửu vị Nữ Phật, và hằng hà sa số chư Phật khác, thường đi đến các cõi trần để dưỡng dục chúng sanh qui nguyên Phật vị.

Ðức Phật Mẫu được nhơn loại tôn xưng bằng nhiều danh từ khác nhau, tùy theo tín ngưỡng tôn giáo, dân tộc và địa phương, kể ra như sau đây :

— Phật Mẫu, vì là MẸ thiêng liêng của toàn cả Vạn linh và Chúng sanh.
— Diêu Trì Kim Mẫu, vì Ðức Phật Mẫu ngự tại Diêu Trì Cung.
— Kim Bàn Phật Mẫu, vì Ðức Phật Mẫu chưởng quản Kim Bàn nơi Diêu Trì Cung.
— Cửu Thiên Huyền Nữ, vì Ðức Phật Mẫu rất huyền diệu, ngự tại từng Trời Tạo Hóa

Thiên là từng thứ 9 trong Cửu Trùng Thiên .

— Ðức MẸ thiêng liêng .
— Ðại Từ Mẫu ,
— Thiên Hậu ,
— Ðịa Mẫu ,
— MẸ sanh .

Ðạo Cao Ðài tôn thờ Ịức Phật Mẫu là tôn thờ NGÔI ÂM, tức là Ngôi Thứ Nhì, còn NGÔI DƯƠNG là Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế, tức Ngôi Thứ Nhứt.
Ðây là một Triết lý hết sức mới mẻ và đúng đắn mà từ trước tới nay các tôn giáo chưa từng có . Họ chỉ biết thờ Ngôi Dương mà thôi.
Việc thờ phượng Ðức Phật Mẫu hiện nay của Ðạo Cao Ðài còn tạm đặt tại Báo Ân Từ trong Nội Ô Tòa Thánh Tây Ninh, vì Ðiện Thờ Phật Mẫu Trung Ương chưa được xây dựng. Chừng nào Hội Thánh xây dựng được Ðiện Thờ Phật Mẫu Trung Ương thì sẽ chánh thức thờ Ðức Phật Mẫu tại đó và trả lại Báo Ân Từ dùng làm Ịền thờ các bậc Vĩ nhân có đại công với nhơn loại và các bậc Tiền bối có đại công với Ðạo, để hậu sanh tỏ lòng biết ơn theo đúng chức năng của nó như tên gọi Báo Ân Từ ( nhà thờ báo ơn ) .

45 nhận xét:

  1. Phật tu tịnh độ một nơi
    Chuyển cho tiên thánh độ chơi ta bà
    Thần đất thì độ tại nhà
    Thần hoàng bổn cảnh độ xa đền thần

    Thánh thì độ khắp muôn dân
    Đền Hoàng,tứ phủ góp phần độ cho
    Hoàng Mười,bà chúa,bà kho
    Xuất ra chánh pháp độ cho dân nghèo

    Tiên thì xuống thế cứu đau
    Bệnh hoạn,ốm yếu hiểm nghèo ra tay
    Thần rừng,thần núi tỏa mây
    Thần sông,thần nước độ đầy cho nhân

    Thần bùa,thần ngải,ân cần
    Lỗ ban cứu độ ,nít càng khóc hơn
    Bùa miên hóa độ như nhơn
    Đeo vô độ mạng mặt càng đen thui

    Ngải thì luyện độ đầu môi
    Nói ra yêu mến ôi thôi ngày nào
    Hết rồi ngải phản lại sao
    Kẻ đau người ốm,được giàu thời gian

    Cuối cùng ngải phản gian nan
    Cuối cùng đau ốm khóc than
    Trí tuệ chỉ thẳng hai đàng bạch minh
    Thầy luyện rồi cũng đau mình

    Vợ con đau nhức thực tình gớm ghê
    Mắc gì Trí tuệ đem phê
    Không hiểu người trách,kẻ chê khổ mình
    Vừa rồi, Tuệ trị thật tình
    chửa người đau đớn,ôm mình rên la

    Bùa ngải nên phải tránh xa
    Tu đi sẽ cứu người ta ôn hòa
    Các thầy căn có ông bà
    Sao không biết giữ tại nhà mà tu

    Ráng tu khổ luyện công phu
    Trời cha đất mẹ sẽ bù công lao
    Tâm thanh,khí tịnh lên nào
    Thiên tôn cứu vớt,con mau trở về

    Người ơi tiên cảnh là quê
    Cõi trần là chỗ thảm thê lụy mình
    Tuệ thương nên tỏ tận tình
    Để cho bá tánh bạch minh chánh tà
    PHẬT TU TỊNH ĐỘ ,TIÊN TU CỨU ĐỘ

    Trả lờiXóa
  2. Là phật tử ,tử sanh vì đạo
    Đạo quý hơn châu báu ngọc ngà
    Đạo mầu của phật thích ca
    Là đường giải ta bà chúng sanh
    Thân đã hiểu đừng mang danh mang lợi
    Đem thân phàm dùng đúng chỗ nơi
    Hành hài như mọi người đời
    Nhưng trong tâm trí là người siêu nhân
    Tu hành phải giữ lấy thân
    Gần mực thì đen, gần đèn sáng sủa
    Tâm đã xầu rồi sao rửa được đây
    Vì trời ẩn uất vầng mây
    Không gian phẳng lặng tâm đây diệu kỳ
    Du hành ta phải cứ đi
    Vẫn biết là khổ ,nhưng thi phải hành

    Trả lờiXóa
  3. Vô hình thế giới tỉnh mê
    Chánh tà giả thiệt khó bề cân phân
    Mấy ai nơi cõi hồng trần
    Hết mê tìm tỉnh canh tân cuộc đời
    Nam kha tỉnh giấc người ơi
    Tìm về thanh tịnh mới thời chánh nhân
    Đảo điên thế cuộc hồng trần
    Oan oan tương báo chỉ gần tà ma
    Bùa ngải đeo đẳng hằng hà
    Còn đâu thanh tịnh để mà tìm chân
    Đạo mở cứu vớt nguyên nhân
    Tà ma làm lộng cản chân tu hành
    Cuộc chiến gay gắt đua tranh
    Thắng mình thật khó,chiến tranh điêu tàn
    Người người sợ khó tham sang
    Chỉ lo cầu cúng mở mang tiền tài
    Nhiễm trược,tà bám dài dài
    Không tu muốn chứng,hỡi ai chứng gì
    Đồng thanh tương ứng nhìn đi
    Nhiễm trược ma chứng,tà thì đeo mang
    Chánh tà xin hãy luận bàn
    Tu hành cho đúng,mới an được lòng
    Thân tâm sạch,bệnh tật vong
    Chúc cho tất cả,học xong chánh tà
    Thanh thì tiên phật gần ta
    Trược tà đeo bám phải xa phật trời
    Gần đèn thì rạng ai ơi
    Chớ nên gần mực để thời tối đen

    Trả lờiXóa
  4. Chữ tâm sách giải chưa thông
    Nửa ngòai vật dục,nửa trong cơ trời
    Làm lành tâm đặng thảnh thơi
    Làm ác tâm lại bồi hồi ăn năn"
    Lương tâm luôn phải trở trăn
    Phàm tâm bất chấp ở ăn vì tiền
    Hiểu rồi một dạ tu hiền
    Thiện lương bồi đắp,hiếu hiền lời văn
    "Bởi chưng tâm vốn thiện căn
    Cơ trời máy tạo tâm hằng giao thông
    Giới tâm trước phải giới lòng
    Phát minh đạo đức mới hòng biết tu"
    Chánh tà không rõ mờ lu
    Thân phàm,cõi tạm ngục tù ngàn năm
    Giữ cho tâm sáng trăng rằm
    Lương tâm sáng tỏ,đường trần nhàn du
    "Để tâm xao lảng lờ lu,
    Thì tâm tạo ác diêm phù khó ra.
    Giới tâm trước phải giới ta,
    Đừng cho danh lợi hại mà bổn tâm."
    Ham danh tranh lợi lạc lầm
    Tạo ra oan nghiệp cõi trần thở than
    Phàm tâm gây nợ chẳng an
    Làm cho chìm đắm thế gian phù trầm
    ''Dục tình, ái ố, mưu thầm,
    Sa mê danh lợi, tham dâm lụy trần.
    Sợ Trời Đất, kỉnh Thánh Thần,
    Thương người mến vật lòng nhân mới tròn."
    Hiểu rồi một dạ sắt son
    Lương tâm cho vững chẳng còn phàm tâm
    Trời che đất chở ta tầm
    Thánh thần ghi chép lạc lầm mấy non
    "Từ bi tập tánh chìu lòn,
    Xử thế bác ái vật nhân thương đồng.
    Công bình càng nhắc nơi lòng,
    Mỗi điều cẩn thận tâm không chẳng mòn."
    Lương tâm giữ vững mãi còn
    Phàm tâm dứt bỏ ,nay con tâm thành
    Chánh tà nay đã hiểu rành
    Kỳ thi đã điểm ghi danh trả bài

    Trả lờiXóa
  5. Thương con nặng gánh làm sao
    Cũng vì thương trẻ mà nao tấm lòng
    Lở rồi đứng nhắc lại chi
    Ráng tu hạnh tốt mà ghi học đời
    Tu mau cho đến kịp giờ
    Đừng để quỷ kéo, mẹ chờ cha trông
    Cảm ơn haken đã có tấm lòng
    Dịch ra buổi hộp,khỏi trong mong chờ
    Con ơi đã tỉnh kịp giờ
    Cuộc đời như thể con cờ bị vây
    Diển đàn thế giới nơi đây
    Giúp ta tụ họp cùng nhau học đời
    Đạo đời tron vẹn tại nơi
    Ráng mà bước kịp thuận thời tiếng lên

    Trả lờiXóa
  6. Gần đây mẹ lập nơi thiên tào
    Mẹ khuyên con trẻ nơi nào
    Trần gian ngạo nghễ đài cao chẳng màng
    Kỳ ba mẹ mở hai đàng
    Đàng đi tiên cảnh đàng sang ngục hình
    Cầm cân tạo hóa công bình
    Mẹ cho con rõ phân minh hai đàng
    Con hiền mẹ rước lên thuyền
    Mẹ thương, mẹ mới chỉ truyền
    Mẹ lựa con thảo cảnh tiên đem về
    Con nghe theo mẹ một bề
    Ngày sau con đặng màn huê thanh nhàn
    Nghe chi ở cõi trần gian
    Miệng lằn lưỡi mối phàn nàn uổng công
    Ngày nay mẹ đặt thuyền rồng
    Con hiền của mẹ chấm công rõ ràng
    Ai mà ăn ở nghinh ngang
    Ngày sau phải chịu nát tan xác hồn
    Chữ rằng họa phước vô môn
    Đáo đầu rồi phải xác hồn tiêu tan
    Ngày nay mẹ chỉ hai đàng
    Đàng tà nẻo chánh rõ ràng con xem

    Trả lờiXóa
  7. Con ơi nay đã kỳ ba
    Đi vào tổng kết cũng là dự thi
    Tam giáo đi tới đồng qui
    Về chung một mối tam kỳ khai thông
    Đạo chung chỉ một không không
    Tam giáo qui nhất hòa đồng Long hoa
    Tam tòa sẽ lựa chọn ra
    Tâm dân minh đức để mà thượng ngươn
    Để mà tiến hóa tuần hườn
    Thần thánh tiên phật về luôn niết bàn
    Vào thi mà vẫn lạc đàn
    Đạo này,đạo nọ bất an lạc đề
    Con ơi ra khỏi chốn mê
    Chốn tiên cảnh phật là quê hương mình
    Cõi trần,quán tục nương mình
    Học hành cho chín, nhục vinh không màng...

    Trả lờiXóa
  8. Nhớ ngày vía Mẫu con ơi
    Tháng có ba ngày,Mẫu đợi thiết tha
    Cùng nhau dâng quả dâng hoa
    Vào những này tám nhớ mà viếng thăm
    Cùng nhau tụng niệm cho chăm
    Vào đầu giờ Ngọ,tháng năm cho đều
    Kính dâng nên Mẫu kính yêu
    Tâm hương con trẻ,được nhiều ân thiên
    Cho hồn sáng lạn như nhiên
    Cho tâm an lạc, nơi miền trần gian
    Cầu cho bá tánh an nhàn
    Cầu cho thế giới,xóa tan hận thù
    Cầu cho nước Việt thiên thu
    Tưởng tin Trời Phật ,đường tu chuyên cần
    Diêu Trì Phật Mẫu gia ân
    Cùng nhau hội yến tại trần nhé con.

    Trả lờiXóa
  9. DÂNG ĐUỐC THIÊNG THÀNH TÂM KÍNH MẪU
    NGỌN LINH ĐĂNG SOI THẤU MƯỜI PHƯƠNG
    ĐIỂN QUANG TỎA ÁNH CHIÊU DƯƠNG
    CẦU XIN TỪ MẪU TÂY PHƯƠNG CHỨNG ĐÀN
    MẸ GIÁNG THẾ ĐỘ AN NON NƯỚC
    CHUYỂN HUYỀN LINH BAN PHƯỚC VẠN DÂN
    NGUỒN THƯƠNG SẦU ĐỌNG BÂNG KHUÂNG
    NHÌN ĐĂNG LÒNG TƯỞNG MẸ GẦN BÊN CON
    **********************************
    Kiền thiền vọng bái Mẫu Hoàng
    chấn chỉnh đạo giáo sắp an dân tình
    Độ người khỏi chốn u minh
    Vọng cầu bái mẹ nhờ tình xót thương
    Chúng dân tai họa đa vương
    Lạy mẹ dạy dỗ mới tường thiên cơ
    Vô cực từ tôn tây thiên bá chủ
    Vương cung tây, mẫu đê đầu lạy tạ từ ân
    Hào quang rọi xuống hương lân tỉnh thành
    Khắp trong dân chúng làm lành
    Thương yêu đùm giúp chẳng đành bỏ nhau
    Mây lành rọi tỏ muôn màu
    Cỏ cây tươi tốt làu làu thái dương
    Yên vui bốn bể mới tường
    Cơ trời sắp đặt luân thường vẻ vang
    Diêu Trì chấn chỉnh sửa sang
    Bao nguồn về cội một đàng chánh quy
    Kiền thiền vọng bái từ tôn
    Chuẩn y tam giáo mới tồn lý cao
    Ơn trên cam lộ rào rào
    Chúng con nguyện vọng ước ao thái bình
    Lạy cầu mẹ ở thiên đình
    Độ an dân chúng pháp linh tỏ tường

    Trả lờiXóa
  10. LỜI MẸ ĐÃ RÃI BAN CHỈ DẠY
    CÁC CON NÀO CÒN CẢI LUẬT TRỜI
    KHÔNG LO TU NIỆM CHIỀU MƠI
    THÌ ĐỪNG TRÁCH MẸ VẬY THỜI CHẲNG THƯƠNG
    MÁNG MA QUỶ CÒN ĐANG TRÀ TRỘN
    PHẬT THÁNH TÊN LẨN LỘN HỐNG TRẦN
    ĐỂ TÙY DUYÊN KÍP ĐỘ NHƠN
    DỂ GÌ GẶP ĐƯỢC CHÁNH CHƠN MÀNG NẦY
    LUẬT KINH PHẬT TỎ BÀY NÓI TRƯỚC
    ĐỜI MẠT PHÁP MỰC THƯỚC KHÓ DÒ
    TỨ SANH THẬP NHỊ NHỎ TO
    ĐẦU THAI QUẢ BÁO KHÓ ĐO ĐƯỢC LÒNG

    Nam Mô Vô Thượng Hư Không
    Địa Mẫu Dưỡng sanh bảo mạng con thơ

    Cúng Mẫu thì cúng đồ chay
    Nó mang thanh khí dâng ngay mẫu hiền
    Quí thay tam bửu dâng lên
    Bông hoa Trà tửu cho bền đức tin
    Hoa thay thân xác đẹp xinh
    Rượu là khí phách anh minh dâng đầy
    Trà là linh tính con đây
    Con dâng tất cả đủ đầy niềm tin
    Tam báu dâng mẹ cầu xin
    Tu hành con nguyện,đức tin con gìn
    Hướng lên phật thánh thần tiên
    Con xin giữ giới nơi miền trần gian
    Cầu xin thân mạnh tâm an
    Lập công bồi đức,chẳng than chẳng phiền
    Hồn con vui nhẹ bước tiên
    Không còn tục lụy,não phiền mẹ ơi
    Một ngày còn sống trên đời
    Thân tâm con nguyện dâng nơi Mẫu hiền

    Mẫu thiêng mẫu chứng cái tâm
    Trọng gì hình tướng mà lầm với sai
    Chớ nên bơi rác hỡi ai
    Có ngày móc bọc,bởi hay tính giùm
    Mượn vật tải ý nhớ chung
    Đem vật cột lý là tùng tâm ma
    Thích mà tranh cãi lánh xa
    Mẫu hiền không chứng cái ta hơn người
    Hòa chung vui vẻ thì mời
    Tranh hơn thua thắng xin mời ...đi chơi

    Trả lờiXóa
  11. ĐẤNG MÀ TRÍ TUỆ NÓI*****
    LÀ NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ VÔ CỰC ĐẠI THIÊN TÔN TỪ TÔN CẢM ỨNG CHỨNG MINH A DI ĐÀ PHẬT****
    Là Huyền Khung Cao Thượng Đế
    Đất địa LÀ MẪU MẸ DIÊU TRÌ
    Phật là hiện hữu cung di
    Từ khi lập địa khai di đến giờ
    Phật là giác ngộ bến bờ
    Hữu hình, chánh giác kịp giờ trở lên
    Hà sa số phật tu nên
    Gác con, bỏ vợ, tu nên đạo mầu
    Gác cung điện kiếm đường mâu
    Đã tu đắc đạo nhiệm mầu hôm nay
    Làm sao phật cao hơn thầy
    Ngài là giác ngộ, tu nay đạt thành
    Tìm hiểu trước đã, hãy tranh
    Hữu hình bỏ xác, trở thành phật môn
    Đất địa cất xác bay hồn
    Cũng nằm đất mẫu, kim thân trở về

    Trả lờiXóa
  12. 8. Khuyến Trí Kinh
    Trí trò phân xét mọi điều,
    Nghĩ suy việc phải, thương yêu kẻ lành.
    Những điều sái quấy chẳng hành,
    Mưu sâu kế độc công danh phải chừa.
    Lưới trời lồng lộng tuy thưa,
    Mà trong trí tưởng Trời thừa hiểu xa.
    Tưởng lành, tưởng phải, tưởng hòa,
    Nguyện lòng chẳng dám đắm sa dục tình.
    Khẩn cầu Từ Phụ hiển linh,
    Ban cho con trẻ phát minh đạo mầu.

    9. Giới Tín Kinh
    Làm người chữ tín làm đầu,
    Dối đời gạt chúng có đâu đặng bền.
    Đem mình quỳ trước điện tiền,
    Lòng thành cầu nguyện thệ nguyền gắn ghi.
    Hữu bằng chẳng đặng hồ nghi,
    Ở cùng vạn loại kỉnh vì tín trung.
    Xử tròn một lẽ tín trung,
    Răn lòng bỏ dữ đối cùng vạn linh.
    Nhờ ơn Thượng Phụ cao minh,
    Lỗi xưa ân xá nay xin sửa lòng.

    10. Giới Thân Kinh
    Thân phàm biếng nhác lừ đừ,
    Nhiều khi dã dượi chẳng từ ngủ ăn.
    Vì thân công đức trở ngăn,
    Mất điều lễ nghĩa hữu bằng tín trung.
    Từ đây con nguyện thủy chung,
    Lấy tâm làm chủ chẳng tùng theo thân.
    Uống ăn, đi đứng có chừng,
    Giữ gìn thể tháo dưỡng thân tu hành.
    Xin Thầy ban chút ân lành,
    Cho con sửa tánh tập tành học tu.
    Ý tâm vốn thật khác nhau
    Ý muốn vật dục,tâm cầu thanh cao
    Lương tâm ta hãy dồi trau
    Đừng cho phàm ý,trước sau làm liều

    11. Giới Ý Kinh
    Ý là ác nghiệt mọi điều,
    Trong đời vạn sự, ý nhiều tội hơn.
    Ý hay ganh ghét giận hờn,
    Răn lòng sửa ý, lý chơn mới tường.

    12. Giới Nhơn Kinh
    Làm người phải trọng đức nhơn,
    Thương yêu vạn loại ra ơn cứu đời.
    Thấy ai đói khó đừng cười,
    Mở lòng bố thí cho người độ thân.
    Vạn vật chung ở trong trần,
    Sát sanh chẳng dám phạm nhầm vì thương.
    Cơ đời tấn hóa lo lường,
    Tùy theo máy Tạo lựa phương thật hành.
    Cầu Thầy độ tận chúng sanh,
    Ban ân cho trẻ tập tành lòng nhân.

    13. Giới Nghĩa Kinh
    Không lòng trộm cướp tham lam,
    Lỗi người nguyện xá lo làm phước duyên.
    Viếng thăm thương kẻ tật nguyền,
    Hòa cùng thân tộc, xóm giềng, chị em.
    Không ganh ghét, chẳng tỵ hiềm,
    Dặn lòng chữ nghĩa một niềm trước sau.
    Khuyên người mê muội ốm đau,
    Hằng ngày cầu chúc người mau làm lành.
    Lạy Thầy cứu vớt quần sanh,
    Con nguyền hôm sớm tu hành nghĩa nhân.

    14. Giới Lễ Kinh
    Lễ nghi kính mến một lòng,
    Ở đời lánh dữ tâm trong trọn niềm.
    Dưới trên giữ trọn tánh khiêm,
    Việc chi sái quấy im lìm mắt tai.
    Loạn dâm, kiêu ngạo, ỷ tài,
    Dặn lòng con chẳng dám sai phạm vào.
    Dạy khuyên con cháu trước sau
    Thương người mến vật chẳng xao tấc thành.
    Lòng Thầy ố sát, háo sanh,
    Con xin thệ nguyện tu hành học gương.

    15. Giới Phu Thê Kinh
    Nhân duyên túc đế tạo thành,
    Âm dương phối hiệp duyên lành phu thê.
    Yêu thương chia sớt nặng nề,
    Trăm năm nối tóc chẳng hề phụ nhau.
    Dầu cho ngộ cảnh cháo rau,
    Bần hèn vui chịu, sang giàu dám quên.
    Sanh con chung dạy, nuôi nên,
    Giúp cơ Tạo Hóa vững bền hậu lai.
    Sấp mình kính bái mẹ cha
    Phụ Hoàng ban phước cả nhà bình an.
    Những điều sâu hiểm ghét thương,
    Đều do ý ác tạo đường nghiệt căn.
    Từ đây con nguyện ăn năn,
    Nhờ Thầy bố hóa con phăng chánh truyền

    Trả lờiXóa
  13. 16. Giới Sân Kinh
    Giận là tánh nóng hại đời,
    Nhà tan nước đổ, tội trời từ xưa.
    Răn lòng đệ tử đừng ưa,
    Một phen nóng giận khổ thừa ba năm.
    Khi phát giận, phải dằn tâm,
    Nghĩ suy cho kỹ khỏi lầm lạc thân.
    Tu hành con nguyện bỏ sân,
    Cầu xin Từ Phụ ban ân độ cùng.

    17. Giới Si Kinh
    Mê si đọa kẻ khổ hình,
    Cũng vì mê muội dục tình phải vương.
    Trăm điều suy nghĩ tận tường,
    Tin càn nghe bướng, mọi đường phải hư.
    Những điều ác đức tâm tư,
    Cũng vì mê muội khắc khư cho mình.
    Mê quyền, mê lợi, mê danh,
    Mê làm chủ sự, mê tranh cạnh đời.
    Đến khi mòn mỏi tắt hơi,
    Hồn đau đớn chịu sanh nơi đao hình,
    Vái cùng Thuợng Phụ hiển linh,
    Ban ân cho trẻ phát minh tu hành.

    18. Giới Ái Kinh

    Ái tình sa đắm hư thân,
    Thỏa lòng giây phút muôn lần đắng cay.
    Lòng thương vật dục hàng ngày,
    Để thương cha mẹ, thương ngoài vạn linh.
    Ái tha thay đổi ái tình,
    Mới là biết đạo, biết mình tu thân.
    Lạy Thầy xin bố hồng ân,
    Cho con mở trí bước lần chơn ra

    19. Giới Ố Kinh
    Ố nhơn thắng kỷ xưa nay,
    Gây điều khổ não, vẽ bày cá nhân.
    Ghét người, Trời ghét nào hơn,
    Nghiệt căn phải chịu, tuần huờn phải theo.
    Thấy người lầm lỗi hiểm nghèo,
    Thương người đừng ghét mà gieo họa sầu.
    Vì chưng chẳng rõ lý sâu,
    Phải người biết lỗi có đâu mà làm.
    Dằn lòng đệ tử tánh phàm,
    Bỏ tâm ganh ghét tìm đàng chánh chơn.
    Cầu xin Thượng Phụ ban ơn,
    Thương con như thể con thương vạn loài.

    20. Giới Kiên Nhẫn Kinh
    Nhẫn kiên vốn nhịn qua thời,
    Làm nên sự nghiệp ở đời lớn lao.
    Hàn Tín xưa vốn anh hào,
    Lòn trôn giữa chợ ai nào biết đâu.
    Trương Lương dưng dép dưới cầu,
    Thù Hàn trả đặng, nghĩa hầu Hớn xong.
    Kiên nhẫn đệ tử ghi lòng,
    Dầu khi hoạn nạn gai chông chớ sờn.
    Miễn tròn đạo nghĩa là hơn,
    Trăm năm trong cuộc tuần huờn biết đâu.
    Từ đây đã rõ Đạo mầu,
    Nhẫn kiên con rán nguyện cầu giữ tâm.
    Xin Thầy quyền phép cao thâm,
    Bền công tu niệm ôm cầm Thiên cơ.

    Trả lờiXóa
  14. 21. Giới Buồn Rầu Nhân Quả Kinh
    Ở đời nhiều lối buồn rầu,
    Hiệp tan, hoạn nạn vì đâu dạt lình.
    Tử sanh, dời đổi, đao binh,
    Làm cho trí hóa cảm tình nhớ thương.
    Trong vòng luân chuyển âm dương,
    Trái oan trước tạo, rẽ đường sao đây?
    Cũng vì nhiều kiếp con gây,
    Ngày nay mới chịu nỗi này chớ sao.
    Nguyện cùng Bắc Đẩu, Nam Tào,
    Vui lòng lãnh chịu một màu trả xong.
    Từ đây lòng dặn lấy lòng,
    Tạo nhơn tác phước, lánh vòng nghiệt căn.
    Cũng vì một lỗi hai lầm,
    Công Tào luật pháp cân cầm chẳng sai.
    Xét ra muôn sự trần ai,
    Đều do tiền kiếp trả vay rõ ràng.
    Biết rồi con chẳng buồn than,
    Dầu khi tai họa khốn nàn cũng cam.
    Dốc lòng làm chủ tánh phàm,
    Nợ xưa xin trả, phước đam thi hành.
    Cầu Thầy độ tận quần sanh,
    Cho con trả quả tập tành tánh linh.

    22. Giới Tư Tưởng Kinh
    Trên trung giới đủ hình tư tưởng,
    Dưới phàm gian hay vướng kế tà.
    Cũng vì tư tưởng xấu xa,
    Gây nên tội lỗi khó qua lưới Trời.
    Biết đạo đức, đổi dời lý tưởng,
    Trọng tinh thần bổ dưỡng linh quang.
    Tưởng lành, tưởng phải, tưởng nhàn,
    Cơ Trời máy Tạo mở đàng giao thông.
    Tư tưởng rửa sạch trong bợn tục,
    Mới dưỡng tâm diệt dục tầm Tiên.
    Nếu con còn tưởng lợi quyền,
    Thì con khó đặng quy nguyên cùng Thầy.
    Trong vạn loại hiệp vầy nhau cả,
    Không riêng ai con đã hiểu tường.
    Phải kềm tư tưởng một đường,
    Tà gian ác quả nó thường dỗ con.
    Lấy thượng trí xét còn lý chánh,
    Cậy đạo tâm đặng lánh quyền tà.
    Lọc lừa theo Phật bỏ ma,
    Khỏi lầm tư tưởng mới là chơn tu.
    Lòng thành kỉnh công phu khẩn nguyện,
    Xin Phụ Hoàng vận chuyển nguơn thần.

    23. Kinh Cầu Khi Đi Ngủ
    Tối ngày mỏi mệt muôn phần,
    Tính toan, làm lụng tinh thần loạn ly.
    Cõi trần khổ não xiết chi,
    Dữ nhiều lành ít lắm khi tội tình.
    Đêm ngồi suy nghĩ việc mình,
    Những điều lầm lỗi giữ gìn ngày mai.
    Nghĩa nhân, hiền đức dồi mài,
    Hiếu trung nghĩa vụ dám sai tấc thành.
    May làm đặng những điều lành,
    Vui lòng Từ Phụ, phước dành ngày sau.
    Rủi thay làm ác hiểm sâu,
    Ăn năn tội lỗi khẩn cầu sửa tâm.
    Xác phàm yên nghỉ canh thâm,
    Hồn lên trung giới học tầm huyền vi.
    Cầu xin Thượng Phụ từ bi,
    Dạy cho hồn trẻ thông tri đạo mầu.

    24. Kinh Thức Giấc
    Thức là sống cõi trần gian,
    Ngủ là sống cõi trần hoàn trung thiên.
    Một đêm xác tục nghỉ yên,
    Rồi đây đến sáng tinh chuyên việc đời.
    Dầu cho hoàn cảnh đổi dời,
    Con nguyền giữ lấy luật Trời chẳng sai.
    Làm lành, giúp khó, trợ tai,
    Thương nhân mến vật, trọn ngày phận tôi.
    Trái oan nguyện trả cho rồi,
    Làm lành tích phước vun bồi đức ân.
    Cầu xin Thượng Phụ ban ân,
    Nghiệt căn lần dứt, nghĩa nhân lo tròn.

    25. Phát Nguyện Tu Hành
    Sấp mình dưới phép Chí Tôn,
    Cầu xin Từ Phụ bảo tồn pháp tu.
    Từ đây con nguyện công phu,
    Trau tâm sửa tánh luyện tu nguơn thần.
    Những điều tội lỗi chẳng gần,
    Làm lành tích phước, thi ân với đời.
    Hầu sau hồn đặng thảnh thơi,
    Dầu cho nhục nhã chẳng rời lòng nhơn.
    Thử lòng khảo đảo chẳng sờn,
    Con nguyền giữ dạ keo sơn vững vàng.
    Cầu xin Thuợng Phụ, Mẫu Hoàng,
    Thánh Thần, Tiên Phật hộ ban phước lành.
    Đạo thệ quyết chí tu hành,
    Nếu con lỗi thệ Thánh Thần phạt răn.
    Giữ từ giấc ngủ bữa ăn,
    Làm y theo Đạo, nói năng khiêm nhường.
    Sửa lòng tập tánh yêu thương,
    Cầu Thầy chỉ giáo dẫn đường chúng sanh.

    26. Kinh Cầu Khi Tham Thiền
    Tham thiền giao cảm Phật Tiên,
    Cầu xin Thượng Phụ chứng miêng tâm thành.
    Hào quang chiếu diệu điển thanh,
    Giúp cho tư tưởng con hành huyền công.
    Tham thiền hồn hiệp hư không,
    Hầu khi xuất vía non bồng lần lên.
    Tìm ra lý chánh luật Thiên,
    Không làm tội lỗi tham thiền phát minh.
    Ngồi yên cửu khiếu trong mình,
    Mở mang thấu đáo thông linh cơ mầu.
    Lòng thành tu luyện khẩn cầu,
    Ngọc Hoàng Thượng Phụ phép mầu độ con.

    Trả lờiXóa
  15. 27. Kinh Cầu Khi Ăn Cơm
    Công Thổ Địa dưỡng sanh thảo mộc,
    Ơn Thần Nông ngũ cốc chưởng trồng.
    Nuôi người thân mạnh, khỏe lòng,
    Khi ăn xưng tụng đức công ông Trời.

    28. Kinh Cầu Khi Xuất Hành
    Trong vòng luân chuyển trần gian,
    Lại qua lui tới dinh hoàn chuyển luân.
    Nay con [ . . . ] dời chân,
    Cầu xin Thượng Phụ, Thánh Thần cảm thương.
    Những điều tai nạn khỏi vương,
    Thần linh phò hộ bước đường bình an.
    Đi về đều đặng vững vàng,
    Côn trùng thảo mộc vô can phạm nhằm,
    Bạch Thầy con thiệt vô tâm,
    Cầu xin Thượng Phụ ân thâm độ cùng.

    Trả lờiXóa
  16. Kỳ này kinh sách ngập tràn
    Không khéo ngụp lặn, khó an được lòng
    Đến nay chia sẻ đôi dòng
    Sưu tầm,gạn lọc đục trong phân rành
    Thái bạch cao quí tinh anh
    Lời kinh sáng chói ngọn ngành thế nhân
    Nguyện khi còn sống tại trần
    Hằng ngày tâm nguyện,rèn tâm cho bền
    Nhớ câu có trí thì nên
    Thực hành chu đáo,dưới trên hiệp hòa
    Nguyện cùng đất mẹ ,trời cha
    Kỳ thi đã điểm tam tòa chấm thi
    Hẹn nhau hội yến Diêu trì
    Có ta ,có bạn cùng đi tới cùng
    Lời kinh như nhịp trống tùng
    Kinh nhị thập bát ,nhắc chung cùng hành
    Giúp người đường tắt hiểu nhanh
    Chúc cho tất cả lòng thành thực thi

    Trả lờiXóa
  17. Phật Nhiên Đăng - Công Chúa Diệu Thiện

    Theo các kinh sách truyền lại thì Đức Quan Thế Âm Bồ Tát có 33 kiếp giáng trần, khi thì làm nam nhi, khi thì làm thiếu nữ, khi thì giáng sanh vào nhà cao sang quyền quí, khi thì vào nơi bần cùng khốn khổ.

    Có 2 kiếp giáng trần làm phụ nữ của Ngài được người đời truyền tụng. Đó là kiếp thứ 10, Ngài giáng trần là Thị Kính ở nước Cao Ly, tu hành đắc đạo gọi là : Quan Âm Thị Kính. Kiếp chót Ngài giáng trần ở Ấn Độ là Công Chúa Diệu Thiện, cũng tu hành đắc đạo gọi là : Quan Âm Diệu Thiện.

    Công Chúa Diệu Thiện là con của vua Linh Ưu, nước Hưng Lâm, một tiểu quốc của Ấn Độ, ở về phía Đông.

    Từ ngày nhà vua lên ngôi đến nay đã 40 năm mà Hoàng Hậu Bửu Đức không sanh đứa con nào. Nhà vua cùng Hoàng Hậu lên núi Huê Sơn cầu tự. Ít lâu sau, Hoàng Hậu thọ thai sanh được một nàng Công Chúa, đặt tên Diệu Thanh. Sau đó lại tiếp tục có thai sanh ra Công Chúa Diệu Âm và Công Chúa Diệu Thiện.

    Ba nàng Công Chúa lớn lên, nhà vua định hôn cho 2 nàng Diệu Thanh và Diệu Âm với 2 vị quan tài giỏi của triều đình, còn nàng Diệu Thiện thì nhứt định không chịu lấy chồng, mà lại xin phép vua cha cho xuất gia tu hành.

    Vua Linh Ưu không bằng lòng, đày nàng vào Huê Viên gánh nước tưới hoa cực khổ, đồng thời nhờ người khuyến dụ nàng bỏ ý định đi tu, nghe lời vua cha, chịu lấy chồng. Nhưng nàng nhứt định không đổi ý, khiến vua Linh Ưu tức giận.

    Hoàng Hậu rất đau lòng, xin vua cho Diệu Thiện vào tu ở chùa Bạch Tước. Vua chấp thuận nhưng ngầm ra lịnh cho các tăng ni trong chùa, bắt Diệu Thiện làm những công việc nặng nhọc, để nàng ngã lòng, sớm trở về cung nội.

    Diệu Thiện vẫn rán sức làm đầy đủ bổn phận, dầu rất cực khổ nhưng không cất tiếng than.

    Nhà vua thấy cách nầy thất bại nên sai quân lính đốt chùa để Diệu Thiện không còn nơi tu hành. Các tăng ni hốt hoảng lo chạy thoát thân, Công Chúa Diệu Thiện vẫn bình tỉnh, nàng cầu nguyện rồi rút trâm chích lưỡi phun máu lên không trung. Tức thì mây đen hiện ra, giây lát mưa tuôn xối xả dập tắt đám lửa. Quân lính đều kinh ngạc.

    Nhà vua không vì sự mầu nhiệm đó mà hối hận việc làm, lại bắt Diệu Thiện về triều, tổ chức các cuộc đàn hát vui chơi cho Diệu Thiện say mê, bỏ việc tu hành. Nhưng vua cha vẫn thất bại trước đạo tâm vững chắc của nàng Công Chúa út.

    Quá tức giận, vua Linh Ưu ra lịnh tối hậu cho Công Chúa Diệu Thiện phải chọn 1 trong 2 điều : Một là nghe lời vua cha lập gia thất, bỏ việc tu hành; hai là chịu xử trảm.

    Diệu Thiện nhứt quyết chịu chết chớ không bỏ tu hành.

    Thần Hoàng bay về Trời tâu bày cho Thượng Đế rõ, và Đức Thượng Đế ra lịnh cho Thần phải lo bảo hộ Diệu Thiện.

    Diệu Thiện bị đưa ra pháp trường hành quyết. Khi đao phủ đưa đao lên định chém thì đao gãy nát, lại lấy cung ra bắn tên cho chết thì tên vừa tới Diệu Thiện, tên bỗng gãy làm hai. Kẻ hành quyết không giết được Diệu Thiện bằng 2 cách trên, liền đến siết cổ Diệu Thiện.

    Bỗng cuồng phong nổi lên, cát bay đá chạy, Thần Hoàng hóa thành mãnh hổ cõng Diệu Thiện chạy tuốt vào rừng. Các quan giám sát bị một phen kinh khủng, trở về triều tâu lại. Vua Linh Ưu không chút nao núng, nói Công chúa bất hiếu nên bị cọp tha mất xác.

    Công Chúa Diệu Thiện tỉnh dậy thấy mình đang nằm trong rừng vắng vẻ, không biết phải làm sao và đi phương nào.

    Đức Phật Nhiên Đăng hiện ra đứng trên mây, bảo nàng Diệu Thiện hãy đi ra Nam Hải, đến núi Phổ Đà tu hành thêm thì sau nầy sẽ đắc quả Như Lai. Muốn đến đó phải trải 3000 dặm đường. Đức Phật tặng nàng một trái Đào Tiên, ăn vào không biết đói khát trọn năm, mà còn được khỏe mạnh.

    Trả lờiXóa
  18. Diệu Thiện thọ lãnh và bái tạ Phật, tìm đường đi Nam Hải. Thái Bạch Kim Tinh hiện xuống, truyền Thần Hoàng biến ra Thần hổ, cõng Diệu Thiện đến Phổ Đà Sơn. Tại đây, Diệu Thiện tu thiền định 9 năm, đạo pháp đạt được cao siêu.

    Ngày 19 tháng 2 năm ấy, là ngày thành đạo của Công Chúa Diệu Thiện, chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đến chúc mừng và xưng tụng công đức của một vị Bồ Tát mới đắc đạo.

    Công Chúa Diệu Thiện ngự trên tòa sen, hào quang sáng lòa, xưng là Quan Thế Âm Bồ Tát.

    Ngày kia, con gái của Thái Tử của Long Vương Nam Hải (thường gọi là Long Nữ) hóa làm con cá dạo chơi nơi mé biển, bị một ông chài bắt được, đem ra chợ bán. Đức Quan Âm biết được, sai Thiện Tài đồng tử hóa ra một thường nhơn đến mua con cá ấy rồi đem ra biển Nam thả xuống nước. Nam Hải Long Vương nhớ ơn Bồ Tát cứu cháu nội mình nên sai Long Nữ đem dâng Bồ Tát một cục ngọc Dạ Minh Châu, để Bồ Tát đọc sách ban đêm mà không cần đốt đèn. Long Nữ dâng ngọc xong, cảm phục công đức của Bồ Tát nên xin qui y theo hầu Bồ Tát, được Bồ Tát thâu làm đệ tử .

    Nhắc lại, từ khi vua Linh Ưu ra lịnh giết chết Diệu Thiện, nhà vua bị một chứng bịnh nan y vô cùng khổ sở, bị lở lói khắp mình mẩy, đau nhức và hôi thối rất khó chịu. Nhiều danh y đến điều trị, nhưng đều không khỏi bịnh.

    Đức Quan Âm ở Phổ Đà Sơn Nam Hải biết việc đó, nên giả làm một vị sư già, đến kinh thành, xin trị bịnh cho nhà vua. Sau khi xem mạch, vị sư già tâu :

    - Bịnh của Bệ hạ do oan nghiệt nhập với chất độc của đồ cao lương mỹ vị và tửu nhục hằng ngày mà phát sanh ra ngoài thành bịnh nan y. Nếu muốn chữa lành thì phải có đôi mắt và đôi cánh tay của một đứa con thì mới chế thuốc được.

    Nghe vậy, nhà vua vội đòi 2 vị Công chúa Diệu Thanh và Diệu Âm vào, lập lại lời nói của sư già, hỏi xem có đứa con nào chịu hy sinh cho vua cha không. Hai Công chúa đồng tâu :

    - Xin phụ vương đừng nghe lời ông sãi mầm nầy. Một người bị chặt 2 tay, bị móc 2 mắt thì dù có sống cũng chẳng ra gì. Chẳng lẽ cứu một người mà hại một người hay sao ?

    Vua Linh Ưu chợt nhớ tới Công chúa Diệu Thiện, liền than : “Nếu có Diệu Thiện thì chắc nó sẽ hy sinh cho Trẫm.”

    Vị sư già liền tâu :

    - Bần tăng biết rõ Công chúa Diệu Thiện còn sống ở Phổ Đà Sơn biển Nam Hải. Xin nhà vua cho người ra đó, tìm Công chúa, may ra chế được thuốc cho Bệ hạ. Bần tăng để thuốc lại đây, chừng nào có đôi mắt và đôi tay thì nhập với thuốc nấu chung lại, trong uống ngoài thoa sẽ hết bịnh ngay.

    Vị sư già nói xong thì từ giã vua Linh Ưu trở về núi.

    Nhà vua sai sứ giả đi Nam Hải. Khi đến Phổ Đà Sơn, một đồng tử bưng một mâm phủ vải trắng thấm ướt máu tươi, trong đó có 2 mắt và 2 tay của DiệuThiện, trao cho sứ giả.

    Hoàng Hậu thấy sứ giả đem 2 mắt và 2 tay của Diệu Thiện về còn dính máu tươi thì khóc mướt. Thị vệ liền đem nấu với thuốc do vị sư già để lại, cho nhà vua uống phân nửa, còn phân nữa thoa ngoài da. Nhà vua liền hết bịnh.

    Vua Linh Ưu và Hoàng Hậu cảm ơn nghĩa của Diệu Thiện, nên quyết định đi Phổ Đà Sơn một chuyến để tạ ơn. Xa giá nhà vua đi gặp biết bao nguy hiểm, nhưng đều được Bồ Tát dùng thần thông cứu thoát. Đến nơi, vua và Hoàng Hậu thấy một vị Bồ Tát ngự trên tòa sen, mất 2 mắt và 2 tay, thì biết đó là Diệu Thiện, con của mình, nên vô cùng xúc động, nhớ lại mà ăn năn sám hối tội tình, quì xuống cầu nguyện với Trời Phật cho Công chúa được lành lặn như xưa.

    Sự thành tâm cầu nguyện của vua và Hoàng Hậu được hiển linh. Bồ Tát Diệu Thiện liền hiện hào quang với đầy đủ 2 mắt và 2 tay. Lúc ấy vua và Hoàng Hậu đều giác ngộ, quyết rời bỏ điện ngọc ngai vàng, đem mình vào chốn thiền môn, tu hành cầu giải thoát.

    Trả lờiXóa
  19. Kỉnh Tâm thọ hàm oan

    Trước kia, Đức Quan Âm Bồ Tát tu được 8 kiếp rồi, qua kiếp thứ 9 thì Ngài giáng trần mang thân Nam nhi, tu đến bực Tỳ Kheo. Khi kiếp nầy gần mãn, Đức Phật Thích Ca hóa làm một cô gái hiện đến để thử lòng, nài ép kết duyên với Tỳ Kheo. Vị Tỳ Kheo nói rằng : “Họa may là kiếp sau, chớ kiếp nầy đã thệ nguyện tu hành thì không thế kết duyên đặng.”

    Vì lời hứa ấy mà vị Tỳ Kheo sau khi mãn kiếp, đầu thai trở lại làm thân con gái phải chịu trăm cay ngàn đắng về tình duyên để thử thách coi ra sao. Ấy là phép Phật định vậy.

    Vị Tỳ Kheo nói trên đầu kiếp vào nhà họ Mãn ở nước Cao Ly. Hai ông bà họ Mãn đã lớn tuổi mà chưa có con, nên đi cầu tự, sanh đặng một gái đặt tên là Mãn thị Kính, dung nghi đẹp đẽ, tướng mạo đoan trang.

    Khi nàng Thị Kính đến tuần cặp kê, thì gần đó có chàng Thiện Sĩ, họ Sùng, con nhà giàu có, cậy mai đến hỏi Thị Kính làm vợ. Mãn Ông thấy phải đôi vừa lứa nên bằng lòng gả con gái mình. Nàng Thị Kính rất buồn vì phải theo chồng, xa cha mẹ, không ai săn sóc cha mẹ. Cha mẹ nàng an ủi : “ Cha mẹ sanh con gái đến tuổi khôn lớn lấy chồng, ăn ở sao cho phải đạo là cha mẹ vui rồi. Vả lại nhà bên chồng cũng gần đây, nên cũng dễ bề qua lại thăm viếng.”

    Từ khi nàng Thị Kính về nhà chồng, nàng giữ một mực tôn kính cha mẹ chồng, trong nhà êm ấm, ai nấy đều khen.

    Ngày kia, nàng đang ngồi may, chàng Thiện Sĩ đọc sách mỏi mệt, đến gần bên nàng nằm nghỉ và ngủ quên. Nàng thấy nơi càm của chồng có mọc mấy sợi râu bất lợi nên sẵn cầm dao nhíp nơi tay, nàng đưa dao cắt đứt. Bỗng chàng Thiện

    Sĩ thức dậy, thấy vợ cầm dao đưa vào cổ mình, vụt la hoảng : “Vợ tôi muốn giết tôi.”

    Trong nhà vỡ lỡ, cha mẹ chàng chạy ra gạn hỏi, nàng cứ tình thật tỏ bày. Không ngờ cha mẹ chồng quá ư nghiêm khác, bắt tội nàng mưu giết chồng, buộc Thiện Sĩ làm tờ để vợ, mời Mãn Ông đến lãnh con gái về.

    Nàng Thị Kính phải mang mối hàm oan, đành lạy từ cha mẹ chồng, trở về nhà. Nàng buồn bã muôn phần, một là buồn cho số phận xui xẻo, hai là buồn vì cha mẹ phải mang tiếng xấu. Nàng than rằng : Nếu nàng đông anh em thì nàng đành quyên sinh để khỏi mang tiếng nhơ như thế. Nhưng vì nàng là con một nên không dám hủy mình mang tội bất hiếu, mà sống như thế nầy thì quá khổ tâm. Cho nên nàng quyết định xuất gia, lo tu hành cho đắc đạo rồi sẽ trở lại độ cha mẹ.

    Nàng lén cải trang thành một nam tử, rồi trốn đi, đi rất xa, đến một ngôi chùa thì gặp lúc Sư cụ đang thuyết pháp. Nàng thấy Sư cụ là bậc chơn tu, nên xin Sư cụ cho qui y.

    Trả lờiXóa
  20. Sư cụ gạn hỏi nhiều lần, vì thấy trang thiếu niên nầy còn trẻ mà sao sớm chán việc đời, đến nương nhờ cửa Phật. Sư cụ thấy chí quả quyết của người thanh niên nầy, nên cho thọ pháp qui y, đặt pháp danh là Kỉnh Tâm, nhận làm đệ tử .

    Sãi Kỉnh Tâm có dung mạo đẹp đẽ làm cho hàng Tín nữ trầm trồ, nhứt là nàng Thị Mầu, con của một vị trưởng giả giàu có trong vùng. Thị Mầu thầm yêu Sãi Kỉnh Tâm nên thường chọc ghẹo và đưa lời ong bướm, nhưng Kỉnh Tâm vẫn trơ trơ như không hay biết. Thị Mầu quá si mê Kỉnh Tâm, phút bồng bột không giữ mình được, nàng tư thông với đứa tớ trai của nàng, khiến nàng Thị Mầu mang thai.

    Làng xã thấy Thị Mầu không chồng mà có chửa, nên gọi nàng và cha mẹ nàng tra hỏi. Thị Mầu khai rằng, nàng có tư tình với Sãi Kỉnh Tâm, và xin làng rộng dung cho Sãi Kỉnh Tâm hoàn tục để kết duyên với nàng.

    Trống mõ của làng inh ỏi, cửa Thiền xưa nay êm lặng, phút chốc trở nên huyên náo, làng đến đòi Sư cụ và Sãi Kỉnh Tâm ra làng dạy việc. Thầy trò dắt díu nhau đi, đến nơi mới hay tự sự. Tá hỏa tâm thần, thầy hỏi trò có sao nói thiệt. Kỉnh Tâm một mực kêu oan chớ không dám nói điều chi khác.

    Kỉnh Tâm bị đem tra tấn, đòn bộng, máu đổ thịt rơi, mấy lần bất tỉnh, nhưng vẫn một mực kêu oan. Sư cụ động mối từ tâm, đứng ra xin làng bảo lãnh cho trò để đem về chùa khuyên nhủ dạy răn. Hương chức làng niệm tình chấp thuận.

    Sư cụ dạy Kỉnh Tâm phải ra nơi cổng chùa mà ở để tránh tiếng không tốt cho chùa.

    Thời gian trôi qua, Thị Mầu sanh được một đứa con trai giống hệt Kỉnh Tâm, nàng liền bồng đứa bé đến giao cho Kỉnh Tâm, nói rằng : Con của người thì đem trả cho người. Nói xong nàng bỏ con tại cổng chùa. Đứa bé giãy giụa khóc la.

    Sãi Kỉnh Tâm đang tụng kinh, nghe tiếng hài nhi khóc, động mối từ tâm, chẳng cần dư luận, bèn ra ẵm đứa bé vào nhà nuôi dưỡng.

    Sư cụ trách Kỉnh Tâm : “ Trước kia con nói con bị hàm oan, mà nay con lại nuôi thằng bé nầy thì chính thầy đây cũng phải nghi ngờ nữa, huống chi là ai.”

    Kỉnh Tâm bạch thầy : “ Bạch Sư phụ, khi xưa Sư phụ dạy con rằng, cứu đặng một người thì phước đức hà sa. Con vâng theo lời dạy ấy mới cứu mạng đứa bé nầy, chớ kỳ trung con không có ý chi hết.”

    Đứa trẻ càng lớn càng giống Sãi Kỉnh Tâm, lại có vẻ rất thông minh. Khi đứa trẻ được 3 tuổi, Kỉnh Tâm biết sắp đến ngày lìa trần theo Phật. Kỉnh Tâm viết 2 bức thơ : một bức gởi Sư cụ, một bức gởi cho cha mẹ ruột. Xong dặn kỹ đứa con nuôi gởi thơ đúng theo lời dặn.

    Sãi Kỉnh Tâm đau bịnh tắt hơi, đứa trẻ khóc lóc một hồi rồi nhớ lời cha dặn, đem thơ giao cho Sư cụ trong chùa.

    Xem thơ xong, Sư cụ rất bùi ngùi thương tiếc, rồi Sư cụ sai 2 vị ni cô ra khám xét thi thể của sãi Kỉnh Tâm, thì rõ ràng Kỉnh Tâm là gái giả trai.

    Tin nầy truyền ra làm cho mọi người hết sức ngạc nhiên, giựt mình vì nỗi hàm oan của Kỉnh Tâm.

    Hương chức trong làng đòi Thị Mầu tới buộc Thị Mầu tội cáo gian, phạt phải chịu các tổn phí trong việc ma chay và tống táng Kỉnh Tâm. Thị Mầu quá xấu hổ, liều mình tự tử.

    Đến ngày an táng Kỉnh Tâm, tức là nàng Thị Kính, mọi người đều thấy Đức Phật ngồi trên tòa sen hiện ra trên mây, rước hồn Thị Kính về cõi Phật ở Tây phương.

    Chàng Thiện Sĩ ăn năn hối lỗi, phát nguyện tu hành.

    Tục truyền, Thiện Sĩ tu đắc quả, hóa thành con chim đậu một bên Đức Quan Âm Bồ Tát, mỏ ngậm xâu chuỗi bồ đề. Bồ Tát cũng độ đứa hài nhi con của Thị Mầu, đắc quả hầu bên cạnh Ngài.

    Do đó, người ta họa hình Đức Quan Âm Bồ Tát đội mũ ni xanh, mặc áo tràng trắng, ngự trên tòa sen, bên tay mặt có con chim mỏ ngậm xâu chuỗi bồ đề, dưới có đứa trẻ mặc khôi giáp chấp tay đứng hầu. Đó là vẽ lấy theo sự tích Quan Âm Thị Kính.

    Trả lờiXóa
  21. Sĩ-Đạt-Ta vượt thành đi tu

    Đức Phật Thích Ca, thế danh là Sĩ-Đạt-Ta (Siddattha, có nghĩa là người được toại nguyện), họ là Cồ Đàm (Gotama) sau đổi họ lại là Thích Ca (Sakya). Ngài giáng sanh vào ngày mùng 8 tháng 4 âm lịch năm 623 trước Chúa giáng sinh, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) trong thủ đô Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu) của một nước nhỏ thuộc miền Bắc Ấn Độ, nằm giáp ranh với xứ Népal ngày nay.(Về sau, Đại Hội Phật Giáo Thế Giới đổi ngày giáng sanh của Đức Phật là ngày trăng tròn 15 tháng 4 âm lịch, và làm Lễ Phật Đản vào ngày nầy).

    Ngài là Hoàng tử, con vua Tịnh Phạn (Suddhodana) và Hoàng Hậu Ma-Da (Maha Maya). Sau khi hạ sanh Hoàng tử được 7 ngày, Hoàng Hậu từ trần, trở về Cung Tiên. Em ruột của Bà là Maha Pajapati cũng kết duyên với vua Tịnh Phạn, thay Bà nuôi dưởng Hoàng tử đến ngày khôn lớn.

    Hoàng tử Sĩ Đạt Ta lớn lên hưởng được sự giáo dục hoàn hảo của bực vua chúa để sau nầy nối ngôi vua cha cai trị đất nước. Ngài trở thành vị Thái tử thông minh xuất chúng, văn võ toàn tài.

    Khi được 16 tuổi, Thái tử kết duyên với Công chúa Da-Du-Đà-La (Yasodhara), một người em bà con cô cậu, cùng tuổi với Ngài. Trong 13 năm chung sống sau ngày hôn lễ, Thái tử sống cuộc đời vương giả, không hay biết chi các nỗi thống khổ của dân chúng ở bên ngoài cung điện.

    Một ngày đẹp Trời, Thái tử cùng các quan hầu cận đi du ngoạn bên ngoài Hoàng cung để ngắm xem thế giới bên ngoài và tiếp xúc dân chúng. Ngài chứng kiến những nỗi vất vả của kiếp sống con người phải lo làm lụng, tìm phương sanh sống. Dân chúng vì sự sống mà tranh giành giết hại lẫn nhau.

    Một ngày khác, Thái tử còn chứng kiến được các cảnh khổ của kiếp sống con người như : Ốm đau, già yếu, chết chóc biệt ly. Vậy thì đời sống của con người có chi sung sướng ? Ngài tự nghĩ rằng, chỉ riêng phần Ngài là một Thái tử, sắp sửa lên làm vua thì nghèo và đói Ngài không cần lo, nhưng còn già yếu, bịnh tật, rồi chết thì không ai tránh khỏi.

    Ngài âm thầm lập chí tìm phương giải khổ cho nhơn sanh. Tình cờ, Ngài gặp một tu sĩ ngoài cửa Hoàng thành, với dáng điệu rất ung dung, mặt mày thơ thới vô tư. Ngài đến hỏi chuyện thì được biết vị tu sĩ ấy xuất gia đi tu học đạo, quyết trừ hết ác căn, lấy lòng từ bi kềm chế dục vọng, hộ niệm chúng sanh không nhiễm theo thế tục, để trước là giải thoát cho chính mình, sau là giải thoát cho chúng sanh. Nghe vậy, Thái tử rất hoan hỷ và nhất quyết sẽ làm như vị tu sĩ ấy.

    Vua Tịnh Phạn biết được ý của Thái tử muốn đi tu, nhà vua không bằng lòng và tìm mọi cách để ngăn cản.

    Giữa lúc ấy, Công chúa Da-Du-Đà-La, vợ của Thái tử vừa sanh được một Hoàng nam. Thái tử không cảm thấy vui mừng mà lại than rằng : “Lại thêm một sợi dây trói buộc.”

    Do đó, vua Tịnh Phạn đặt tên cho cháu nội là Ra-Hầu-La (Rahula), tiếng Phạn có nghĩa là trở ngại.

    Vào năm Thái tử 29 tuổi, đêm mùng 7 tháng 2, trong lúc vợ, con, và quan binh trong Hoàng thành ngủ say sau một buổi tiệc vui tưng bừng múa hát, Thái tử gọi quan hầu cận Xa-Nặc (Chana) thắng ngựa Kiền trắc (Kanthaka) cho Thái tử trốn khỏi Hoàng cung, đi vào rừng núi thanh vắng để tầm Đạo.

    Nhờ ngựa Kiền trắc chạy rất mau, nên đêm đó nó đưa Thái tử đi rất xa. Thái tử vỗ đầu khen nó chạy thật hay, mạnh mẽ và mau lẹ như một vị Thiên thần.

    Thái tử tự mình cắt tóc, gỡ gươm trao cho Xa Nặc, bảo Xa Nặc dẫn ngựa Kiền trắc trở về tâu trình với phụ vương.

    Thái tử cổi áo Thái tử đổi lấy áo thâm của một người thợ săn, rồi đi thẳng vào núi.

    Trả lờiXóa
  22. Vua Tịnh Phạn sai các Đại thần đi tìm Thái tử, khuyên Thái tử trở về triều, nhưng Thái tử nhứt định không đổi ý.

    Thái tử tìm đến một Đạo sĩ rất lỗi lạc tên là Alarama Kalama để xin thọ giáo. Ngài học hết giáo pháp của Alarama nhưng cảm thấy chưa đạt được cứu cánh. Ngài xin từ giã để đi tìm một Đạo sĩ nổi tiếng khác có tên là Uddaka Ramaputta. Ngài cũng học hết giáo pháp của Uddaka, nhưng vẫn chưa thấy được mục tiêu cứu cánh. Thái tử nhận thấy rằng, không ai có đủ khả năng để dẫn dắt Thái tử thành tựu vì những vị mà Ngài vừa học vẫn chưa thoát khỏi vòng Vô minh.

    Từ đó, Thái tử không tìm thầy học đạo nữa, mà tự mình đến chỗ thanh vắng suy tư tìm tòi Chơn lý.

    Thái tử gặp một nhóm 5 tu sĩ mà ông Kiều trần Như đứng đầu, theo ủng hộ Ngài thực hành lối tu khổ hạnh.

    Thái tử tự khép mình vào một nếp sống cực kỳ kham khổ suốt 6 năm dài, đến một ngày kia, thân hình của Ngài chỉ còn da bọc xương, hơi thở yếu ớt gần như một xác chết, mà Ngài vẫn chưa thâu đoạt một kết quả đáng kể nào.

    Buổi ấy cái thảm trạng sắp chết của Ngài hầu đến. Bỗng có một ông tiều mang một cây đàn đến gần chỗ Ngài ngồi, lên dây đàn rồi khảy một khúc rất hay, đến lúc hay nhất thì dây đàn bỗng đứt, tiếng đàn im bặt. Ông tiều lại nối dây, lên dây đàn trở lại rồi đờn. Tiếng đờn réo rắt thanh tao, đến khúc hay nhất thì bỗng dây đàn đứt nữa, cái hay không đạt. Ông tiều lại nối dây, lên dây rồi đờn lại, rồi đứt, rồi nối lại.

    Thái tử đang trì định phải bực bội tỉnh hồn nói rằng :

    - Ông đờn thì hay, mà lên dây chi cho cao quá, đến khúc hay thì dây đứt, thì cái hay đó phải hết mùi, rất đáng tiếc.

    Ông tiều liền đáp :

    - Cái đờn của tôi cũng giống như cái tu của Ông. Dây đờn của tôi lên caoquá nên đến chỗ hay thì đứt dây làmcái hay

    của tiếng đàn hết mùi, giống như cái tu của Ông, nếu có đạt được cái cao siêu là cơ bất diệt đi nữa, thì nó cũng phải chết theo cái xác thân khô đét của Ông, còn ích chi cho đời, nên tôi cũng tiếc cho Ông lắm vậy !

    Lão tiều nói xong, liền xách đàn đi mất. (Trong kinh cho Lão tiều khảy đàn là một vị Phật hóa thân đến cảnh tỉnh Thái tử). Thái tử suy nghĩ mãi lời nói của ông tiều, chợt tỉnh giác, biết mình lầm theo lối tu khổ hạnh, chỉ làm suy giảm trí thức và mệt mỏi tinh thần. Thái tử thầm cám ơn ông tiều đến cảnh tỉnh mình, liền dứt khoát từ bỏ lối tu khổ hạnh ép xác, cũng như 6 năm trước đây, Ngài dứt khoát từ bỏ đời sống lợi dưỡng. Ngài lại nhớ đến ngày lễ Hạ điền của vua cha trước kia, trong lúc mọi người đang lo làm lễ thì Thái tử đến dưới bóng mát của cây trâm, ngồi thiền định và đắc được Sơ Thiền. Ngài nhớ lại và thấy rõ ra rằng đó mới chính là con đường dẫn đến giác ngộ. Đó là con đường tu, không sống theo lợi dưỡng, mà cũng không sống quá khắc khổ, gọi là Trung Đạo.

    Thái tử bắt đầu dùng trở lại các vật thực nuôi dưỡng xác thân. Ngài mệt nhọc lần đến bờ sông Ni-Liên-Thiền (một nhánh của sông Hằng) xuống tắm rửa sạch sẽ, rồi đi lên, và kiệt sức ngã vào một gốc cây bồ đề nằm bất tỉnh.

    May mắn lúc đó có một thiện nữ bưng một bát sữa bột tìm đến cúng dường, gặp một ông đạo đang nằm thoi thóp dựa cội cây. Nàng đỡ ông đạo dậy rồi dâng bát sữa. Thái tử thọ lãnh, uống hết, rồi Ngài định tỉnh trở lại, thấy sức khỏe dần dần hồi phục, tinh thần sảng khoái.

    Ngài tìm đến một gốc bồ đề to lớn, trải cỏ làm nệm để ngồi thiền định, phát lời đại thệ : Nếu không thành đạo thì không rời khỏi chỗ nầy.

    Trải qua 49 ngày đêm Thiền định, Ngài ngộ đạo, biết được nguyên nhân sanh tử của con người, tìm ra con đường giải thoát chúng sanh khỏi luân hồi khổ não. Ngài đắc quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, lấy hiệu Thích Ca Mâu Ni.

    Trả lờiXóa
  23. Phật dạy Ra-Hầu-La

    Ra-Hầu-La, tiếng Phạn là Râhula, phiên âm : Ra-Hầu-La hay La-Hầu-La, là tên người con trai của Đức Phật Thích Ca, hồi Ngài còn là Thái tử Sĩ-Đạt-Ta trong Hoàng cung.

    Thái tử Sĩ-Đạt-Ta, con của vua Tịnh Phạn, cưới Công chúa Da-Du-Đà-La năm Ngài 16 tuổi. Mãi đến năm Ngài 29 tuổi, Công chúa mới có thai và sanh ra đứa con trai đầu lòng. Tin mừng nầy đem đến cho Thái tử lúc Ngài đang ngồi trong Ngự Uyển, trầm tư suy tưởng về Tứ Khổ của con người.

    Ngài nghe tin, chẳng những không mừng mà lại than : “Đứa con ra đời là có thêm một trói buộc nữa.”

    Do đó, vua Tịnh Phạn đặt tên cháu nội là : RÂHULA, có nghĩa là trói buộc.

    Cũng trong đêm đó, Thái tử quyết định rời gia đình, vượt hoàng cung để lên đường tầm đạo.

    Sáu năm sau, Thái tử Sĩ-Đạt-Ta đắc đạo thành Phật, hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Ngài đem giáo lý của Ngài truyền bá cứu độ chúng sanh, nhưng ngài chưa vội trở về gia đình.

    Mãi đến 3 năm sau, nhiều lần vua Tịnh Phạn cho người đến mời gọi, Đức Phật mới trở về kinh đô để thăm phụ vuơng và vợ con. Lúc đó Ra-Hầu-La được 9 tuổi.

    Sau 7 ngày ở lại hoàng cung, Đức Phật sửa soạn từ giã ra đi. Công chúa Da-Du-Đà-La, dạy Ra-Hầu-La đến nói với Đức Phật như sau :

    - Kính thưa cha, con là Hoàng tử con của cha, xin cha trao lại cho con tài sản của cha, tức là của con.

    Đức Phật thầm nghĩ : “ Nó muốn gia tài của cha, nhưng tài sản trong thế gian nầy quả thật đầy phiền não. Như Lai sẽ ban cho nó gia tài cao thượng gồm 7 phần mà Như Lai đã thâu đạt dưới cội bồ đề. Như Lai sẽ giúp nó trở thành sở hữu chủ của một gia tài như thế.”

    Đức Phật gọi Ông Xá-Lợi-Phất đến, bảo Ông làm lễ xuất gia cho Ra-Hầu-La. Ra-Hầu-La trở thành một Sa-Di đầu tiên trong giáo đoàn.

    Ra-Hầu-La theo Phật làm Sa Di, nhưng còn bé quá, chưa ý thức được con đường tu, và cũng chưa đủ kiến thức để lãnh hội giáo pháp của Phật. Ra-Hầu-La chỉ biết vâng lời các vị trưởng thượng, làm như một cái máy.

    Khi Xá-Lợi-Phất nhận thêm một chú bé Quân Đầu làm Sa Di thì Ra-Hầu-La mới bắt đầu có bạn, nhưng vẫn còn có tánh trẻ con, hay chơi đùa nghịch ngợm, phỉnh gạt người khác để làm trò vui. Các vị cư sĩ, trưởng giả đến hỏi thăm Đức Phật, gặp Ra-Hầu-La thì thế nào chú cũng chỉ sai đường, để các vị nầy đi lộn qua chỗ khác, làm cho chú thích chí cười vui.

    Chuyện nghịch ngợm nầy đến tai Đức Phật. Ngài đích thân đến vườn Ôn Tuyền khiển trách và dạy dỗ Ra-Hầu-La.

    Trả lờiXóa
  24. PHẬT DẠY RA-HẦU-LA :

    Khi nghe tin Đức Phật đến, Ra-Hầu-La vội chạy ra đón, đem nước đến để Phật rửa chân. Phật rửa chân xong, chỉ nước trong chậu hỏi Ra-Hầu-La :

    - Nầy Ra-Hầu-La, nước nầy có thể uống được không ?

    - Bạch Thế Tôn, không thể uống được. - Tại sao ?

    - Vì nước đã ô uế.

    - Nầy Ra-Hầu-La, ngươi cũng giống như thứ nước đó. Thời gian ngươi xuất gia làm Sa Di khá dài, gần 10 năm, nhưng ngươi chưa dứt được thói xấu. Nước ô uế không uống được, thân tâm ngươi còn ô uế các tập khí thì có gì khác đâu ? Hình thức thì xuất gia, mà thân, khẩu, ý còn trần tục, tất cả không thể thăng hoa. Ngươi đã rời bỏ thế tục, thì phải giữ lòng thanh tịnh, hành vi cử chỉ đoan chánh, lời nói chơn thật. Xuất gia mà không trừ bỏ được 3 độc uế đó thì chẳng khác gì nước dơ. Nước dơ người ta đem đổ, người nhiều tật xấu sẽ bị sa đọa.

    Nói xong, Phật bảo Ra-Hầu-La đem chậu nước đổ đi, rồi mang chậu không trở lại. Đức Phật hỏi :

    - Nầy Ra-Hầu-La, chậu nầy đựng thức ăn được không?

    - Thưa không. - Tại sao ?

    - Vì chất dơ còn bám đầy chậu.

    - Nầy Ra-Hầu-La, chậu dơ không đựng thức ăn được, thân dơ cũng thế thôi. Ngươi chỉ là một Sa Di, mà thân khẩu ý không sạch, không tu tập Giới Định Huệ, tâm không sạch, lời nói bông đùa nghịch ngợm, thân dính đầy cấu uế, mất hết oai nghi, như thế khác gì nước dơ, chậu dơ. Chậu dơ không dùng được thì giữ lại làm gì.

    Nói xong, Phật đá chậu dơ cho bể đi, rồi nói tiếp :

    - Nầy Ra-Hầu-La, ngươi có tiếc cái chậu không ?

    - Thưa không. - Tại sao ?

    - Vì chậu dơ không dùng được.

    - Nầy Ra-Hầu-La, chậu dơ không tiếc khi nó bể, giống như mọi người không thương tiếc ngươi, vì ngươi có nhiều lầm lỗi, kể cả lầm lỗi trong việc vui chơi. Mang danh là người xuất gia, mà con còn nói năng không thật thà, thiếu chững chạc, phỉnh gạt người khác, ai mà thương mến ngươi được.

    Trả lờiXóa
  25. Nghe Đức Phật răn dạy, Ra-Hầu-La tỉnh ngộ, phát nguyện sửa đổi tâm tánh, tu luyện Mật Hạnh.

    Phật dặn Xá-Lợi-Phất luôn luôn kềm cặp Ra-Hầu-La.

    Một hôm, hai thầy trò Xá-Lợi-Phất và Ra-Hầu-La vào thành Vương Xá để khất thực. Trên đường đi, chẳng may hai thầy trò gặp một toán du đảng chận đường hành hung. Ra-Hầu-La bị chúng đánh chảy máu đầu, nên rất tức giận, ôm đầu khóc thê thảm. Xá-Lợi-Phất từ tốn khuyên bảo :

    - Nầy Ra-Hầu-La, tuổi đã 19 rồi, sắp thọ Cụ Túc giới, ngươi hãy quyết tâm nhổ sạch tập khí ba độc bằng Mật Hạnh nhẫn nhục cao độ. Kẻ hành giả không nên oán cừu thù hận, hãy đem đức tánh từ bi thương yêu tất cả chúng sanh. Ở đời khen chê, vinh nhục là điều không đáng cho người tu lưu tâm. Điều đáng cho hành giả ghi nhớ là sức mạnh của nhẫn nhục có thể thắng tất cả sức mạnh khác, dù lớn lao đến đâu.

    Vừa khuyên giải, Xá-Lợi-Phất vừa băng bó vết thương cho Ra-Hầu-La. Khi về đến Tịnh xá, Xá-Lợi-Phất trình bày với Đức Phật các việc xảy ra. Đức Phật an ủi Ra-Hầu-La :

    - Nầy Ra-Hầu-La, nhẫn nhục là hạnh vô cùng cao quí. Muốn thấy Phật, thuận Pháp, gần Tăng, ngươi hãy tu hạnh nhẫn nhục. Người biết nhẫn nhục, tâm hồn thư thái an ổn, diệt trừ các tai họa, trí huệ phát sinh. Trí huệ là kiếm báu chặt đứt gốc rễ Vô Minh, Tham ái, Ngã chấp. Người có trí huệ dù có chung đụng với thế tục, vẫn không bị ô nhiễm. Nhẫn nhục là điều kiện làm tăng thượng duyên, tuyên dương Chánh pháp, là tư tưởng để sớm được giải thoát khỏi sinh tử luân hồi.

    Để khải thị thêm, giúp Ra-Hầu-La có đủ điều kiện tu tiến, chứng đắc quả Thánh, Đức Phật nói tiếp :

    - Nầy Ra-Hầu-La, để nối tiếp dòng Thánh, không phụ các ân, ngươi hãy nhìn thẳng vào thực tại của muôn vật. Ngươi có thấy một vật nào đứng yên không ? Tất cả đều năng động trong sinh diệt. Ngươi cần đem trí huệ soi suốt tánh vô thường vô ngã của vạn vật, kể cả thân tâm của ngươi. Có rõ suốt như thế, tâm mới không chấp trước, dính mắc ở bất cứ thứ gì, để tu niệm, hầu sớm giải thoát. Trong mình ngươi có huyết thống cao quí, ngươi không nên trì trệ trên con đường tu học.

    Nghe Phật cảnh tỉnh, Ra-Hầu-La choáng váng đầu óc, dành mọi thời gian chuyên tâm tu luyện. Cuối cùng, Ra-Hầu-La trở thành bậc có Mật Hạnh đệ nhứt, được Phật khen ngợi.

    Ra-Hầu-La thuộc hàng 10 Đại đệ tử của Phật, chứng đắc phẩm vị A-La-Hán.

    Trả lờiXóa
  26. Phật gieo mạ - Ba-ra-hoa-đa

    Ba-ra-hoa-đa là chữ phiên âm của tiếng Phạn là : Bharavadja, hay nói đầy đủ là Kasibharavadja. Là tên của một tu sĩ Bà-La-Môn ở xứ Magadha nước Ấn Độ.

    Vị Bà-La-Môn nầy hỏi Đức Phật Thích Ca là Đức Phật cày và gieo mạ như thế nào ?

    Trong Kinh Tạng của Phật giáo, có chép câu chuyện về Đức Phật Thích Ca gieo giống và cày cấy như sau đây :

    Một ngày kia, Đức Phật đến một làng theo Đạo Bà-La-Môn của xứ Magadha. Lúc ấy có lối 500 người đang chuẩn bị ra đồng làm việc cho Ông Bà-La-Môn giàu có tên là Ba-ra-hoa-đa. Đức Phật đắp y mang bát đến nơi mà người ta đang phân phối vật thực và đứng sang một bên.

    Ông Bà-La-Môn Ba-ra-hoa-đa thấy vậy nói :

    - Nầy Tôn giả ! Tôi cày và gieo, mới có lương thực cho tôi ăn. Tôn giả cũng phải vậy, ông cũng phải cày, gieo, và sau đó ông ăn.

    Đức Phật đáp :

    - Nầy ông Bà-La-Môn ! Như Lai cũng là một nông dân, cũng cày, và gieo. Cày và gieo xong thì Như Lai ăn.

    - Nhưng mà tôi có thấy ông cày đâu ! Cái cày, cái ách, lưỡi cày và bò kéo của Tôn giả đâu mà tôi chẳng thấy, mặc dầu Tôn giả nói : Tôn giả cày, gieo. Tôn giả tự xưng là nông dân nhưng tôi có thấy Tôn giả cày lúc nào đâu ?

    Như Lai đáp:

    - Đức tin là hột giống, kỷ luật là mưa, trí tuệ là cái ách cày và cây cày, khiêm tốn là cán cày, tâm là dây cương, niệm là lưỡi cày và roi bò. Như Lai sống với Lục căn thu thúc, lời nói và ăn uống độ lượng. Như Lai đã dùng sự chơn thật để cắt từ cọng cỏ dại. Thành đạt Đạo quả tối thượng là mở dây thả bò. Tinh tấn là loài thú chở nặng đã đưa Như Lai đến trạng thái không ràng buộc (Niết Bàn). Trực chỉ thẳng tiến, không quay trở lại và đã đi, nó không còn phiền não. Đó là lằn cày của Như Lai được thực hiện như thế đó. Hậu quả của nó là trạng thái bất tử. Đã kéo xong lằn cày thì không còn phiền muộn và âu sầu nữa.

    Nghe Đức Phật nói xong, vị Bà-La-Môn bới đầy một chén cơm trộn sữa dâng cho Như Lai và nói :

    - Cầu xin Tôn giả Cồ-Đàm độ chén cơm trộn sữa nầy. Tôn giả Cồ-Đàm quả thật là một nông dân vĩ đại, vì Ngài đã trồng một loại cây trổ trái bất tử. Ý nghĩ của kẻ hèn nầy là thuộc về vật chất, còn lời nói của Tôn giả thuộc về tinh thần. Gieo mạ cấy lúa để có cơm ăn là nuôi phần xác thịt, còn truyền giảng Đạo lý của Như Lai là cái cày, và gieo mạ là để nuôi phần linh hồn. Cả hai đều quan trọng nhưng phần linh hồn thì trọng hơn phần thể xác, vì rằng nuôi xác thịt cho mập béo mà phần trí hóa tối tăm thì có ích chi đâu ! Thật cao cả thay giáo pháp của Như Lai ! Cầu xin Như Lai độ chén cơm trộn sữa nầy.

    Đức Phật liền từ chối, nói rằng :

    - Vật thực nhận lãnh do sự giảng đạo thì không thích đáng cho Như Lai dùng. Nầy ông Bà-La-Môn ! Đó là thông lệ của bậc Đại Giác. Đấng Chánh Biến Tri không thể dùng vật thực ấy. Khi nào truyền thống nầy còn tồn tại thì đó là Chánh mạng.

    Trả lờiXóa
  27. Như Lai niêm hoa, Ca-Diếp vi tiếu
    Linh Sơn là ngọn núi linh thiêng rất nổi tiếng ở gần thành Vương Xá, nước Ma-Kiệt-Đà, thuộc miền Bắc Ấn Độ. Tương truyền, trên núi ấy thường có Thần Tiên hiện đến. Tên núi ấy theo tiếng Phạn là Kỳ-Xà-Quật, dịch là Kê Túc Sơn hay Linh Thứu Sơn. Gọi Kê Túc Sơn là vì chân núi có hình như cái chân gà (kê là gà, túc là chân). Gọi Linh Thứu Sơn là vì đỉnh núi có hình chim thứu (con ó).

    Tại chân núi có cất một ngôi chùa gọi là chùa Linh Sơn, và Đức Phật Thích Ca thường đến đây để thuyết pháp. Ngài thuyết Kinh Đại Thừa và Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.

    Như thường lệ, Đức Phật chuẩn bị đăng đàn thuyết Pháp. Nhưng lần nầy, Ngài đứng thật nghiêm trang và rất lâu, Ngài nhìn khắp chư tăng đang đứng trước mặt Ngài mà Ngài không nói lời nào cả, rồi Đức Phật cầm một bông sen đưa lên cao, mắt lim dim như đi vào Thiền định. Một lúc sau, Ngài mở mắt ra nhìn khắp tăng chúng một lần nữa, Ngài thấy tăng chúng đều đứng nghiêm trang và lặng thinh, duy có một mình Ma-Ha Ca-Diếp thì mỉm cười lộ vẻ tinh tấn.

    Đức Phật long trọng nói :

    - Ta có Chánh pháp Nhãn tàng, Niết Bàn Diệu tâm, thật tướng mà không tướng, ấy là Pháp môn vi diệu, không lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền. Nay ta truyền lại cho Ma-Ha Ca-Diếp.

    (Câu chuyện nầy được đặt tên theo chữ Hán là “ Như Lai niêm hoa, Ca-Diếp vi tiếu; hay vắt tắt là Phá nhan vi tiếu. Như Lai là Phật, niêm hoa là cầm cành hoa đưa lên, vi tiếu là cười nhỏ tức là cười mỉm. Phá là khám phá, nhan là nét mặt, phá nhan là thay đổi nét mặt vì đã khám phá ra điều bí mật. Như Lai niêm hoa là Đức Phật đưa cành hoa lên, Ca-Diếp vi tiếu là Ông Ca-Diếp, đại đệ tử của Đức Phật, mỉm cười.)

    Ma-Ha Ca-Diếp thọ tâm ấn của Phật, nên sau khi Phật tịch diệt, Phật truyền y bát làm tín vật cho Ma-Ha Ca-Diếp làm Đệ Nhứt Tổ Sư Phật giáo, điều hành Giáo Hội Tăng Già.

    Ý nghĩa : Ca-Diếp thấy Đức Phật đưa bông sen lên mà không nói, Ca-Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười vì ông rõ thấu chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín vi diệu bên trong, tuy có tướng mà không tướng.

    Bông sen là biểu hiệu của Tâm, sự im lặng là biểu hiệu của Pháp. Tâm với Pháp, tuy có mà không, tuy không mà có. Ca-Diếp đã biết đem Nhãn với Tâm phối hiệp mà tương ứng nhau. Thần quang từ mắt phát dụng, mà Thần quang chính là Linh quang của Tự tánh, nó vốn ở nơi bổn tâm. Đem Thần quang phối hiệp với Tâm thì Tâm được quang minh tự tại. Còn nếu đem Thần quang vọng phát ra ngoài, nhiễm lấy trần cảnh thì Tâm bị vọng động hôn mê.

    Ca-Diếp dùng Mắt xem Tâm, thâu Thần nơi con Mắt, khiến nó trở về Tâm khiếu, gọi là phép Hồi Quang Phản Chiếu, hay là Phản bổn huờn nguyên. Ấy là chỗ bí quyết về Tâm không, vô chấp vậy.

    Phật đưa bông sen lên là ý Ngài đưa cái Tâm duy nhất lên cho tăng chúng thấy, nhưng tăng chúng chỉ thấy bông sen chớ không thấy Tâm. Chỉ có Ca-Diếp là thấy Tâm, quán triệt chỗ vi diệu của Chánh pháp, không bị tướng bông sen án mắt, nên mới được cái Tâm ấn bí truyền của Phật.

    Câu chuyện “Niêm hoa vi tiếu” nầy được xem là hột giống Thiền mà Đức Phật Thích Ca đã gieo vào Phật giáo lúc Ngài còn sanh tiền. Nhưng hột giống ấy không nẩy nở được ở Ấn Độ, phải chờ đến vị Tổ Sư thứ 28 là Bồ-Đề Đạt-Ma, đem hột giống Thiền nầy gieo vào đất Trung hoa thì hột giống mới nẩy nở và phát triển rực sáng vào thời Lục Tổ Huệ Năng của Phật giáo Thiền tông Trung hoa, và truyền lại đến ngày nay.

    Trả lờiXóa
  28. Trần Nhân Tông là ông Vua nhà Trần đầu tiên xuất gia theo đúng nghĩa của từ này. Hơn thế, chính Trần Nhân Tông là người đã hợp nhất các dòng Thiền lưu truyền từ trước để sáng lập nên Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, một dòng Thiền của riêng Việt Nam.

    Trần Nhân Tông sinh ngày 11 tháng 11 âm lịch năm Thiệu Long năm thứ 1 (tức năm 1258) vốn tên thật là Trần Khâm, là con trai trưởng của Vua Trần Thánh Tông với Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng Thái hậu Trần Thị Thiều. Người ta kể rằng, khi mới sinh ra, bên vai trái của Trần Nhân Tông có nốt ruồi đen, mọi người cho rằng đó là tướng tốt, có thể cáng đáng được những việc lớn.

    Khi còn nhỏ, Trần Nhân Tông được Vua cha là Thánh Tông đặt tên là Phật Kim, sau còn có tên là Nhật Tôn rồi mới đổi thành Trần Khâm. Năm 16 tuổi, sau khi từ chối nhiều lần mà không được, Trần Khâm buộc phải lên ngôi Thái tử. Người ta nói rằng, lý do Trần Khâm từ chối ngôi vị Thái tử mà nhiều người mơ ước là vì ông muốn đi tu. Vì vậy, dù đã ở nhận ngôi Thái tử nhưng Trần Khâm đã nhiều lần trốn đi tu song không thành. Bốn năm sau, năm 1278, Trần Thánh Tông quyết định truyền ngôi báu lại cho Thái tử Trần Khâm. Trần Khâm lên ngôi Vua tức Trần Nhân Tông, đổi niên hiệu thành Thiệu Bảo (1278 - 1285).
    Mặc dù ở ngôi quân vương, song Trần Nhân Tông vẫn một lòng hướng Phật. Sử chép, sau khi lên ngôi Vua, Trần Nhân Tông vẫn sống thanh tịnh, thường ở chùa Tư Phúc xây tại nội điện, không dùng đồ mặn mà thường ăn chay nhạt. Ông cũng thường mời các Thiền sư đến giảng giải về Tâm tông. Thời gian lúc bấy giờ, Trần Nhân Tông thường xuyên gặp gỡ với Thiền sư Tuệ Trung Thượng sỹ.

    Tuệ Trung Thượng Sỹ vốn tên thật là Trần Tung, là con trai của An Sinh Vương Trần Liễu và là anh ruột của vị Thống soái nổi tiếng trong cuộc chiến chống quân xâm lược Nguyên – Mông của nhà Trần: Trần Quốc Tuấn. Mặc dù tham dự cả ba lần chống quân xâm lược Nguyên - Mông nhưng khác với người em của mình, ngay từ thời trẻ, Trần Tung đã thích thú với Thiền học, từng bái Thiền sư Tiêu Dao làm thầy. Do kiến thức của Trần Tung rất uyên bác nên Trần Nhân Tông đã tôn ông làm thầy. Chính vị Trần Tung đã có ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng Thiền của Trần Nhân Tông cũng như việc thành lập Thiền phái Trúc Lâm sau này.

    Mặc dù một lòng hướng Phật và ham thích Thiền học, tuy nhiên, Trần Nhân Tông cũng là một đấng minh quân kỳ tài và một vị chiến tướng dũng mãnh. Cùng với Trần Quốc Tuấn và những nhân vật kỳ tài thuộc thế hệ thứ 2 nhà Trần, Trần Nhân Tông đã lãnh đạo nhân dân hai lần đánh bại sự xâm lược của quân Nguyên - Mông, lúc bấy giờ đang làm bá chủ trên khắp hai lục địa Á – Âu vào các năm 1285-1288.

    Khi quân Ai Lao ở phía Nam liên tục đem quân quấy nhiễu biên giới, cũng chính Trần Nhân Tông đã dẫn quân đi đánh dẹp vào năm 1290. Cũng chính ông Vua một lòng hướng đến Phật môn này đã từng có những tuyên bố nảy lửa: “Một tấc đất của tiền nhân để lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác”.

    Tuy nhiên, sau khi đánh tan cuộc xâm lược của bọn lang sói phương Bắc đồng thời dẹp yên vùng biên ải phía Nam, theo thông lệ các đời Vua trước, Trần Nhân Tông đã quyết định nhường ngôi lại cho con mình là Trần Anh Tông, quyết định xuất gia đi tu. Sử sách chép rằng, đó là chuyện xảy ra vào năm 1293, khi Vua Trần Nhân Tông đi chơi Vũ Lâm, Ninh Bình rồi quyết định xuất gia tại đây.

    Có lẽ vì thời điểm Trần Nhân Tông nhường ngôi, Trần Anh Tông còn quá trẻ (Trần Anh Tông sinh năm 1276, khi lên ngôi mới 17 tuổi), nên Trần Nhân Tông đã quyết định ở ngôi Thái Thượng hoàng trong 5 năm sau đó trước khi quyết định rời khỏi Hoàng cung lên Yên Tử một lòng tu Phật. Đó cũng là khoảng thời gian xảy ra giai thoại Thượng hoàng Trần Nhân Tông dạy con nổi tiếng trong sử sách.

    Trả lờiXóa
  29. Đến vị Sơ Tổ của Trúc Lâm Yên Tử

    Sau 5 năm ở ngôi Thái Thượng hoàng, Trần Nhân Tống quyết định giao toàn quyền cho Trần Anh Tông còn mình thì chọn Yên Tử làm nơi tu hành. Tại đây, Trần Nhân Tông siêng năng tu hành 12 hạnh đầu đà, tự gọi là Hương Vân Đại Đầu Đà. Cũng tại Yên Tử, Trần Nhân Tông đã bỏ rất nhiều công sức hoàn thành việc hợp nhất hệ thống giáo lý và tư tưởng của các Thiền phái trước đó đã xuất hiện ở Việt Nam, sáng lập nên Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, một dòng Thiền của riêng Việt Nam.

    Cũng từ đây, ông lấy hiệu là Đầu đà Hoàng giác Điếu ngự hay Trúc Lâm Đầu Đà và bắt đầu xây dựng tăng xá, mở pháp độ tăng. Phật tử từ khắp nơi trong cả nước nghe tiếng Trần Nhân Tông kéo về xin thọ pháp đông như trẩy hội. Cũng chính vì vậy, mặc dù thuộc thế hệ thứ 6 của dòng Thiền Trúc Lâm, nhưng người đời sau đều tôn xưng Trần Nhân Tông là Sơ Tổ của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, coi đây như một dòng Thiền tiếp nối dòng Thiền Trúc Lâm. Cũng bắt đầu từ Trần Nhân Tông Việt Nam mới chính thức có một dòng Thiền Phật giáo của người Việt, do chính người Việt sáng lập.

    Trên thực tế, Trần Nhân Tông không xuất gia với mục đích trở thành một cao tăng hay pháp chủ, cái ông muốn là tìm sự đào sâu vào những tư tưởng Thiền học từ đó tìm ra cái kế “vạn thuở vững âu vàng” cho non sông đất nước. Chính vì vậy, mặc dù đã xuất gia nhưng cho tới tận khi ông mất, Trần Nhân Tông vẫn không khi nào lơ là những chuyện quốc gia đại sự.

    Sử sách chép rằng, những năm đầu mới lên Yên Tử, khi sức khỏe còn tốt, Trần Nhân Tông thường hay trở về Hoàng cung để giảng giải cho Trần Anh Tông về đạo làm Vua cũng như cách trị nước. Trong những cuộc nói chuyện với con trai của mình, Trần Nhân Tông còn để lại không ít những bài học về cách trị nước mà cho đến tận ngày nay vẫn còn nguyên giá trị.

    Cái chết của Trần Nhân Tông cũng được người đời sau phủ lên một lớp màn huyền ảo và ly kỳ. Chuyện kể rằng, vào ngày mồng 5 tháng 10, năm Hưng Long thứ 16, tức năm 1208, chị gái của Vua Trần Nhân Tông là Công chúa Thiên Thụy cho người lên núi, tâu rằng: "Công chúa bệnh tình nguy kịch, muốn được trông thấy điều ngự lần cuối". Trần Nhân Tông liền chống gậy xuống núi, chỉ có một người đi theo.

    Trả lờiXóa
  30. Ngày mồng 10 tới kinh đô, ngày 16 dặn dò xong lại trở về núi. Trên đường về, người như linh cảm thấy số mệnh mình nên đã qua một số chùa để giã từ tăng hữu. Ngày 17, người nghỉ chân ở chùa Sùng Nghiêm, huyện Chí Linh, Hải Dương. Ngày 18, người đến chùa Tú Lâm gần đó.

    Thấy đau đầu, người liền nói với hai nhà sư Tử Nan và Hoàng Trung rằng: "Ta muốn lên am Ngọa Vân, nhưng chân không bước nổi, biết làm sao đây?". Hai nhà sư thưa: "Đệ tử xin hết sức giúp đỡ". Tới quá chiều Vua Trần mới lên được đỉnh núi Ngọa Vân. Đây là ngọn núi cao nhất vùng thuộc làng Yên Sinh, huyện Đông Triều, quê gốc họ Trần. Trong thời gian tu ở Yên Tử, Trần Nhân Tông đã cho lập một am ở đây, đặt tên là Ngọa Vân (nằm trên mây), từ đó thành tên núi. Đôi khi người dừng chân đọc sách và tham thiền, nên đã có lối mòn đi tắt sang Yên Tử.

    Ngày 19, Trần Nhân Tông sai người lên núi Yên Tử gọi thị giả của mình là Bảo Sái. Bảo Sái tới suối Doanh, trông thấy một đám mây đen từ phía Ngọa Vân bay qua núi Lỗi, đến suối thì nước dâng cao mấy trượng rồi lại phẳng lặng như thường. Bỗng thấy hai con rồng, đầu to như đầu ngựa cùng nghển cổ lên cao đến một trượng, hai mắt sáng như sao, một lúc thì biến mất.

    Ngày 21, Bảo Sái tới Ngọa Vân. Trần Nhân Tông cười nói: "Ta sắp đi đây, sao ngươi tới muộn thế? Trong pháp thuật có chỗ nào chưa hiểu thì hỏi ngay đi". Mấy ngày liền, trời đất tối tăm, gió gào dữ dội, mưa như trút nước. Bỗng đêm ngày mồng 2, rạng ngày tới mồng 3 tháng 11, trời quang mây tạnh. Vua hỏi: "Giờ này là giờ gì?". Bảo Sái thưa: "Bây giờ là giờ Tý". Vua đẩy cửa sổ ra và nói: "Giờ của ta đó!". Nói xong, người nằm dáng sư tử, rồi tịch ngay trong am trên núi. Đó là ngày mồng 3 tháng 11 năm 1208. Năm đó Trần Nhân Tông 51 tuổi.

    Có sự tích còn kể rằng trước khi tịch diệt về cõi niết bàn, Trần Nhân Tông bảo mọi người hãy xuống núi, sau đúng 100 ngày mới đến được đến gần, thấy núi thơm thì hãy hỏa táng thi hài, nếu không thì thôi. Mọi người tuân theo, đúng 100 ngày sau tới lưng chừng núi đã thấy thoang thoảng mùi thơm.

    Sau đó thấy Trần Nhân Tông vẫn nằm nghiêng dáng sư tử, một mầm trúc non xanh mọc xuyên qua đùi trái. Tuyên theo di chúc, đệ tử của Trần Nhân Tông là Pháp Loa đã hỏa thiêu thi hài người, sau đó lấy tro viên thành một ngàn viên xá lỵ, một số đưa về táng ở Cung Vua, một số táng ở vườn Huệ Quang trên núi Yên Tử.

    Trả lờiXóa
  31. Thần đồng vấn Khổng Tử

    Thần đồng là đứa trẻ nhỏ tuổi thông minh vượt bực, có năng khiếu đặc biệt hơn hẳn các trẻ cùng tuổi. Vấn là hỏi.

    Thần đồng vấn Khổng Tử là câu chuyện Thần đồng Hạng Thác hỏi Đức Khổng Tử nhiều điều mà Ngài không trả lời được, nên chịu phục Hạng Thác làm thầy.

    “Đức Khổng Tử khi còn nhập thế, chưa xuất thế, ở Nhơn đạo chưa học Thiên đạo. Ngài học văn chương mà giáo huấn Nhơn đạo, dạy cang thường luân lý, sửa đương Nhơn đạo, sau Ngài học lễ với Lão Đam, cũng giáo huấn môn đồ về Nhơn đạo. Trong lúc ấy, Ngài có vợ con, thịt ăn rượu uống.

    Vậy nên có câu rằng : “ Khổng Tử, Thiên sanh chơn kỳ trí, Tánh mạng công phu thỉ bất minh.” Nghĩa là : Đức Khổng Tử, Trời sanh người trí lạ, Tánh mạng phép công phu, Ngài còn chưa rõ đặng.

    Sau Ngài qua nước Trần, gặp Hạng Thác, chừng đó mới học qua Thiên đạo, lúc ấy mới cấm răn rượu thịt, dâm dục, y theo qui giới mà tu Thiên đạo. Nên có câu : “ Trai minh thạnh phục, Yết dục dưỡng tinh.”

    Mấy lời đó, sao người học Nho không nhắc lấy mà so sánh thí cập.

    Còn khi chưa xuất thế tu hành thì Ngài để kinh sách dạy theo Nhơn đạo, sửa mình mà thôi. Như vậy lấy sách dạy Nhơn đạo thí cập so sánh với Thiên đạo, sao phù hiệp đặng.

    Khi Đức Khổng Tử học đạo rồi, sau Thầy Tử Cống có nói rằng : Đức Phu Tử nói văn chương thì ta hiểu rõ, còn nói qua Thiên đạo, ta nghe không hiểu.

    Đó chẳng phải Đức Khổng Tử Ngài ở Nhơn đạo, sau tu qua Thiên đạo hay sao ? Nên mới nói Nhơn tâm, Đạo tâm, là 2 nẻo khác nhau.” (Trích trong Hội Lý Xiển Chơn Luận trang 42 của Ông Nguyễn văn Kinh)

    Đức Khổng Tử cùng một số học trò, trên đường đi qua nước Trần, gặp một đám trẻ nhỏ chơi đùa giữa đường. Ngài ngồi trên xe nhìn đám trẻ, thấy có một cậu bé cặm cụi lấy cát đắp một cái thành nhỏ mà không đùa nghịch. Đức Khổng Tử dừng lại hỏi cậu bé :

    - Sao cậu không chơi đùa với mấy đứa trẻ kia ?

    Cậu bé đáp :

    - Đùa giỡn thì vô ích. Sự đùa giỡn có thể làm rách quần áo, nhọc công mẹ vá khâu và làm buồn lòng đến cha, nên tôi không đùa nghịch.

    Nói xong, cậu tiếp tục đắp thành. Đ. Khổng Tử lại hỏi :

    - Cậu không tránh cho xe của tôi đi sao ?

    Cậu bé thản nhiên đáp :

    - Từ xưa đến giờ, xe phải tránh thành, chớ có bao giờ thành tránh xe.

    Đức Khổng Tử nghe cậu bé trả lời hay quá, thấy cậu bé nầy có vẻ khác lạ, liền xuống xe đến gần cậu bé bàn luận nhiều việc xa xôi. Cậu bé đều trả lời xuôi rót, nhưng có tánh cách biến trá. Đức Khổng Tử trách rằng :

    - Cậu hãy còn bé mà sao đã biến trá lắm vậy ?

    - Người ta sanh ra 3 ngày đã biết tìm vú mẹ, con thỏ sanh ra 3 ngày đã chạy tung tăng trên đồng nội, con cá sanh ra 3 ngày thì biết xuôi ngược khắp sông hồ. Đó là tánh tự nhiên, sao gọi là biến trá ?

    - Cậu ở xóm nào, làng nào, cha mẹ ở đâu ?

    - Tôi sanh tại đây, họ Hạng tên Thác, chưa có tên tự.

    - Ta muốn cậu cùng đi chơi với ta, ý cậu thế nào ?

    - Trong nhà tôi còn có cha, cần phải phụng, còn có mẹ cần phải dưỡng, có anh để phụ tùng, có em phải dạy dỗ, còn có thầy để học hỏi, đâu có rảnh để đi chơi với ông.

    - Trong xe ta có sẵn 32 con cờ, ta muốn cùng cậu đánh cờ, cậu có bằng lòng không ?

    - Thiên tử mê cờ thì bốn biển không người gìn giữ, chư Hầu mê cờ thì chính sự không an, nho sĩ mê cờ thì việc học đình trệ, nông phu mê cờ thì quên việc cày cấy, vì thế tôi không đánh cờ.

    - Ta muốn cùng cậu đàm luận việc bình trị thiên hạ, cậu có bằng lòng không ?

    - Chuyện thiên hạ khỏi phải bình, vì hoặc như núi cao, hoặc như sông hồ, hoặc như vương hầu, hoặc như nô tỳ. Nếu san bằng núi thì chim chóc không nơi trú ngụ, lấp bằng sông hồ thì cá nhờ đâu bơi lội, bỏ chức vương hầu thì dân không người trị, bỏ nô tỳ thì chủ nhân không có người để sai khiến, thế nên tôi không bình luận việc thiên hạ.

    Trả lờiXóa
  32. Đức Khổng Tử lại hỏi :

    - Lửa nào không khói ? Nước nào không cá ?

    Núi nào không đá ? Cây gì không cành ?

    Người nào không vợ ? Ai kẻ không chồng ?

    Trâu nào không nghé ? Ngựa nào không con ?

    Trống nào không mái ? Mái nào không trống ?

    Ai là quân tử ? Ai kẻ tiểu nhân ?

    Vật gì không đủ ? Vật gì có thừa ?

    Thành nào không chợ ? Người nào không con ?

    Cậu bé Hạng Thác liền đáp :

    - Lửa đôm đốm không khói. Nước giếng không cá.

    Núi đất không đá. Cây khô không cành.

    Tiên Ông không vợ. Ngọc Nữ không chồng.

    Trâu đất không nghé. Ngựa gỗ không con.

    Trống độc không mái. Mái độc không trống.

    Hiền là quân tử. Kẻ dại tiểu nhân.

    Ngày Đông không đủ. Ngày Hạ có thừa.

    Hoàng thành không chợ. Đứa trẻ không con.

    Sau khi Hạng Thác trả lời xong, Đức Khổng Tử hỏi tiếp :

    - Cậu có biết gì về lẽ Đạo hằng của Trời Đất ?

    Sự cuối cùng của Âm Dương ?

    Đâu là phải ? Đâu là trái ?

    Đâu là trong ? Đâu là ngoài ?

    Ai là Cha ? Ai là Mẹ ?

    Ai là chồng ? Ai là vợ ?

    Gió từ đâu đến ? Mây từ đâu ra ?

    Sương từ đâu có ? Trời Đất xa nhau mấy dặm ?

    Cậu bé Hạng Thác liền trả lời :

    - 9 lần 9 chu kỳ là 81. Ấy là đạo của Trời Đất.

    8 lần 9 là 72. Ấy là Âm Dương cùng cuối.

    Tây là phải. Đông là trái.

    Trong là lý. Ngoài là biểu.

    Trời là Cha. Đất là Mẹ.

    Mặt Trời là chồng. Mặt Trăng là vợ.

    Gió từ cây xao động. Mây trong núi bay ra.

    Sương từ đất dậy. Trời Đất xa nhau ngàn ngàn

    vạn vạn dặm.

    Cậu bé Hạng Thác đã trả lời đầy đủ các câu hỏi của Đức Khổng Tử. Bây giờ cậu bé xin thỉnh giáo Đức Khổng Tử đôi điều :

    - Thưa Ngài, vịt ngỗng sao nổi trên mặt nước ?

    Chim hồng chim nhạn sao lại kêu to ?

    Tùng bách sao ngày Đông vẫn xanh lá ?

    Đức Khổng Tử đáp rằng :

    - Vịt ngỗng vì chân nó banh mà nổi bơi trên mặt nước.

    Chim hồng chim nhạn kêu to là vì cổ nó dài.

    Tùng bách ngày Đông xanh lá là vì ruột nó đặc.

    Cậu bé Hạng Thác cười nói rằng :

    - Chắc không hẳn như vậy đâu.

    Tôm cá vẫn nổi trên mặt nước mà chân nó có banh đâu.

    Ễnh ương, ếch nhái kêu to mà cổ của nó có dài đâu.

    Cây trúc rổng ruột mà ngày Đông vẫn xanh lá.

    Sau khi bắt bẻ các câu trả lời của Đức Khổng Tử, Thần đồng Hạng Thác hỏi tiếp :

    - Trên bầu Trời có sao lấp lánh, vậy thưa Ngài có tất cả bao nhiêu vì sao ?

    - Chuyện dưới đất không thiếu gì sao lại hỏi chuyện trên Trời.

    - Vậy dưới đất nhà cửa san sát có bao nhiêu ngôi nhà ?

    Đức Khổng Tử lại nói rằng :

    - Ta nên nói ngay chuyện trước mắt có phải là thực tế hơn không, cần gì nói chuyện Trời Đất.

    - Vậy thưa Ngài nếu bàn chuyện trước mắt thì Ngài cho biết lông mày có bao nhiêu sợi ?

    Đức Khổng Tử không trả lời, chỉ biết cười mà thôi.

    Ngài quay lại nói cùng các học trò rằng : “ Hậu sanh khả úy.” (kẻ sanh sau đáng sợ thật). Đó là kẻ rất khó tìm thấy trong thiên hạ. Nói xong Ngài trở lên xe đi thẳng.

    Bài thi : Thần đồng vấn Khổng Tử :

    Hưu khi niên thiếu thông minh tử,

    Quảng hữu anh tài trí quá nhân.

    Đàm luận thế gian vô hãn sự,

    Phân minh Cổ Thánh hiện kỳ thân.

    Tạm dịch :

    Đừng khinh tuổi trẻ bậc Thần đồng,

    Có lắm anh tài trí quảng thông.

    Luận việc thế gian không giới hạn,

    Thánh xưa hiện rõ thể vừng đông.

    Tối hôm ấy, Đức Khổng Tử ngồi thẩn thờ trước án, ngọn đèn bạch lạp lụn tàn...

    Trả lờiXóa
  33. LỤC TỔ HUỆ NĂNG (638-713)

    "Ngài tên là Huệ Năng, thân phụ Ngài họ Lư, húy Hạnh Thao, thân mẫu của Ngài là Lý thị.

    Ngài sanh vào đời nhà Đường, niên hiệu Trinh Quán thứ 12 nhằm năm Mậu Tuất, tháng 2, ngày mùng 8, giờ Tý.

    Lúc sanh Ngài có một đạo hào quang chiếu lên hư không, lại có mùi thơm xông lên khắp căn nhà.

    Trời vừa rạng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến xin viếng và gọi thân phụ Ngài nói rằng: Nhơn có đứa nhỏ sanh hồi đêm qua, nên chúng tôi đến đặt tên dùm. Nên đặt trên là chữ HUỆ, dưới là chữ NĂNG.

    Thân phụ Ngài hỏi: Sao gọi là Huệ Năng?

    Một thầy tăng đáp: Huệ nghĩa là đem pháp huệ mà thí cho chúng sanh, Năng nghĩa là làm được việc Phật.

    Nói rồi, hai vị tăng liền đi ra, chẳng biết đến xứ nào.

    Khi lọt lòng mẹ, Ngài không bú sữa, ban đêm có Thần nhân rưới nước cam lồ cho Ngài." (Trích Pháp Bảo Đàn Kinh)

    Sau đó, thân phụ của Ngài qua đời, Ngài ở với mẹ, lớn lên đi bán củi kiếm tiền nuôi mẹ. Ngài không biết chữ, vì nhà nghèo, không có tiền để đi học.

    Năm Ngài 24 tuổi, vẫn đi bán củi như thường lệ.

    Lúc ấy có một người mua củi, bảo Huệ Năng đem đến tiệm. Khách thâu củi, Huệ Năng lãnh tiền rồi bước ra ngoài cửa, thấy một người khách tụng kinh. Huệ Năng nghe qua, tâm liền mở mang tỏ sáng, mới hỏi khách tụng kinh gì?

    Khách đáp: Kinh Kim Cang.

    Huệ Năng lại hỏi: Ở đâu đến mà trì tụng kinh ấy?

    Khách rằng: Tôi ở chùa Đông Thiên, huyện Huỳnh Mai, xứ Kỳ Châu lại đây. Chùa ấy do Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn Đại Sư chủ trì giáo hóa tại đó. Môn nhơn của Ngài có trên một ngàn người. Tôi đã đến chùa lễ bái, nghe giảng và lãnh kinh ấy. Đại Sư thường khuyên các vị tăng, người tục, nếu ai trì tụng Kinh Kim Cang thì liền thấy tánh và chắc thành Phật.

    Huệ Năng nghe nói thế, rồi bởi có nhơn duyên kiếp trước nên nhờ một người khách giúp Huệ Năng 10 lạng bạc, bảo sung vào việc y thực cho lão mẫu (mẹ của Huệ Năng) và dạy qua huyện Huỳnh Mai làm lễ Ngũ Tổ.

    Huệ Năng an trí lão mẫu xong, liền từ giã ra đi, chẳng đầy 30 ngày thì tới huyện Huỳnh Mai, vào làm lễ Ngũ Tổ.

    Ngũ Tổ hỏi: Ngươi là người phương nào, muốn cầu việc chi?

    Huệ Năng đáp: Đệ tử là dân huyện Tân Châu, xứ Lãnh Nam, thiệt ở phương xa đến đây lạy Tổ Sư chỉ cầu thành Phật chớ chẳng cầu chi khác.

    Tổ Sư nói: Ngươi là người Lãnh Nam, lại là giống dã man, thế nào thành Phật được.

    Huệ Năng nói: Con người tuy có phân Nam Bắc, chớ Phật tánh vốn không Nam Bắc. Cái thân dã man nầy đối với Hòa Thượng, tuy chẳng giống nhau chớ tánh Phật nào có khác.

    Ngũ Tổ còn muốn nói chuyện nữa, nhưng thấy chúng môn đồ đứng vây hai bên tả hữu, nên bảo Huệ Năng theo đồ chúng mà làm công việc.

    Huệ Năng nói: Kính bạch Hòa Thượng, tự tâm của đệ tử thường sanh trí huệ, chẳng lìa tự tánh, tức là phước điền, chẳng hay Hòa Thượng còn dạy làm công việc gì nữa?

    Tổ Sư nói: Cái căn tánh của người dã man nầy thiệt là sáng suốt. Ngươi chớ nói nữa, hãy đi ra nhà sau.

    Huệ Năng đi ra nhà sau thì có một hành giả sai Huệ Năng bửa củi giã gạo (giã bằng chày đạp).

    Trải qua 8 tháng dư, một ngày kia, Tổ Sư xảy thấy Huệ Năng, Ngài nói rằng: Ta nghĩ chỗ tri kiến của ngươi dùng được, song sợ có kẻ ác hại ngươi, nên chẳng nói chuyện với ngươi, ngươi có biết chăng?

    Huệ Năng đáp: Đệ tử cũng hiểu ý của Tổ Sư, nên chẳng dám đến trước nhà, khiến cho người ta không biết.

    Một ngày kia, Ngũ Tổ bảo các môn nhân đều tựu lại mà dạy rằng:

    - Ta nói cho chúng đệ tử rõ, sự sống thác của người đời là việc lớn. Các ngươi trọn ngày chỉ cầu phước điền chớ chẳng cầu ra khỏi biển khổ sống thác. Nếu tánh mình mê muội thì phước nào cứu được. Các ngươi lui về, mỗi người đem trí huệ của mình, lấy tánh Bát Nhã của bổn tâm mình mà làm một Bài Kệ, đem trình cho ta xem. Nếu ai hiểu rõ đại ý, ta sẽ truyền y pháp cho làm Tổ thứ sáu. Hãy đi cho mau, chẳng đặng chậm trễ. Nếu để tâm suy nghĩ độ lượng ắt chẳng hạp dùng. Phàm người thấy tánh, khi nghe pháp rồi thì phải thấy liền. Nếu được như thế thì dẫu quơ đao ra trận, cũng thấy tánh. (Người lợi căn, dầu gặp cảnh nguy nan gấp rút, bao giờ cũng thấy tánh mình.)

    Trả lờiXóa
  34. Các môn nhân khi được lịnh sắp phân rồi, liền lui ra, lần lượt kêu nhau mà truyền rằng: Bọn chúng ta chẳng nên lóng tâm dùng ý mà làm kệ để trình Hòa Thượng, vì có ích chi đâu! Thượng Tọa Thần Tú hiện làm Giáo Thọ, chắc người làm kệ được. Chúng ta đừng làm kệ chi cho hao tổn tâm lực rất uổng.

    Chúng môn nhơn nghe nói thì yên lòng, đồng bảo nhau từ đây sắp sau, chúng ta nương cậy Đại Sư Thần Tú, cần gì phải làm kệ cho phiền lòng.

    Còn Đại Sư Thần Tú suy nghĩ: Các người ấy không trình kệ, là vì nể ta là Giáo Thọ, thầy của bọn chúng. Ta phải làm kệ trình Hòa Thượng. Nếu không trình kệ thì Hòa Thượng đâu biết chỗ thấy hiểu trong tâm ta sâu cạn thế nào. Bổn ý ta trình kệ mà cầu pháp thì tốt, còn mong vào ngôi Tổ thì xấu, cũng giống như người phàm, lòng mong đoạt ngôi Thánh. Bằng chẳng trình kệ, rốt không đắc pháp. Thiệt rất khó! Rất khó!

    Nguyên trước nhà Ngũ Tổ có ba gian nhà cầu. Ngài tính rước quan Cung Phụng là Lư Trân vẽ các biến tướng thuật trong Kinh Lăng Già (Quang cảnh lúc Phật thuyết pháp tại Hội Lăng Già) và cái bản đồ chỉ sự truyền kế của 5 vị Tổ Sư gọi là Ngũ Tổ huyết mạch đồ, để lưu truyền cho đời cúng dường.

    Đại Sư Thần Tú làm kệ xong, muốn đem trình mấy phen, nhưng mỗi khi đến trước nhà Tổ thì lòng hoảng hốt, mồ hôi ra ướt cả mình, nghĩ rằng trình kệ chẳng đặng.

    Trước sau trải qua 4 ngày 13 phen mà trình kệ chẳng đặng. Sư Thần Tú mới suy nghĩ, chi bằng biên bài kệ nơi vách nhà cầu, nếu thình lình Hòa Thượng xem thấy mà khen hay thì ta ra làm lễ, nói rằng bài kệ ấy của Thần Tú làm, bằng Ngài nói rằng bài kệ ấy chẳng đặng dùng, thiệt uổng công ta vào núi theo thầy học đạo tu hành đã bao nhiêu năm nay.

    Đêm ấy, đến canh ba, Thần Tú chẳng cho ai biết, tự mình cầm đèn, biên bài kệ nơi vách nhà cầu phía Nam, bày rõ chỗ thấy của tâm mình.

    Trả lờiXóa
  35. Kệ rằng:

    Thân thị bồ đề thọ, 身是菩提樹
    Tâm như minh cảnh đài, 心如明鏡臺
    Thời thời cần phất thức, 時時勤拂拭
    Vật sử nhạ trần ai. 勿使惹塵埃

    GIẢI NGHĨA:
    Thân: thân mình. Thị: là. Thọ: Thụ: cây. Minh: sáng.
    Cảnh: còn đọc là Kính: tấm gương soi mặt. Đài: cái giá đỡ.
    Thời thời: luôn luôn. Phất: quét. Thức: lau chùi.
    Vật: chớ. Sử: khiến cho. Nhạ: rước lấy. Trần: bụi, cõi trần.
    Ai: bụi bặm. Nhạ trần ai: dính bụi trần.

    C. 1: Thân thị bồ đề thọ: Thân là cây bồ đề,
    C. 2: Tâm như minhcảnh đài: Tâm như đài gương sáng,
    C. 3: Thời thời cần phất thức: Luôn luôn cần quét lau.
    C. 4: Vật sử nhạ trần ai: Chớ để dính bụi trần

    KHẢO DỊ:

    Câu 4 có bản khác chép là:

    - Mạc khiển hữu trần ai.
    - Mạc sử nhá trần ai.

    Lời giải của Hòa Thượng Thích Minh Trực trong bản dịch Pháp Bảo Đàn Kinh:

    "Đại ý bài kệ nầy chứng tỏ Sư Thần Tú khi ấy thân căn chưa trong sạch, tâm thể chưa tỏ sáng, nên cầu cho thân trong sạch như cây bồ đề, tâm tỏ sáng như đài gương, giờ giờ còn công phu dẹp dục dứt tình, nên chưa giải thoát.

    Sư Thần Tú thật là thông minh, nhưng bởi duyên nghiệp còn nhiễm vương, nên chưa hạp thời đắc pháp.

    Bài kệ của Sư Thần Tú có ý nghĩa hay, nhưng chỉ hạp dùng cho hàng trung hạ, tu từ thấp lên cao, tức theo Tiệm giáo.

    Đây là bài giải cho hiểu ý nghĩa, chớ chẳng phải phân biệt chỗ cao thấp hơn thua. Người xem kinh chẳng nên tỏ ý khinh dể mà phải mê, thất đạo tâm."

    Sư Thần Tú ví thân mình giống cây bồ đề, tâm mình như đài gương sáng. Đài gương sáng mà để cho bụi bám thì mất sáng, bị mờ đi, nên cần phải quét chùi cho hết bụi bặm, thì nó sẽ sáng mãi.

    Bài kệ nầy rất hay, vì nó gần gũi với phần đông người tu hành, vì tâm chúng ta hiện giờ mù mịt u tối vì bị các thứ bụi dơ như phiền não, vọng tưởng che phủ, nên chúng ta cần phải lau chùi luôn thì mới là đài gương sáng.

    Trả lờiXóa
  36. Sư Thần Tú biên bài kệ rồi bèn trở xuống phòng, chẳng ai hay biết. Thần Tú lại suy nghĩ: Nếu ngày mai, Ngũ Tổ thấy bài kệ mà vui mừng tức là ta có duyên với pháp, bằng Ngài nói chẳng đặng dùng, ấy bởi tâm ta muội mê, nghiệp chướng kiếp trước còn nặng, nên chẳng hạp thời đắc pháp. Thánh ý thật khó dò!

    Ở trong phòng, Thần Tú cứ lo nghĩ mãi, suốt cả năm canh nằm ngồi chẳng yên.

    Ngũ Tổ đã biết trước Sư Thần Tú chưa vào đặng cửa Đạo, vì người chưa thấy tự tánh.

    Trời sáng, Ngũ Tổ vời Lư Trân đến bảo vẽ cảnh biến tướng và cái bản đồ nói trên nơi vách nhà cầu phía Nam, xảy thấy bài kệ ấy. Ngũ Tố bảo rằng:

    - Nầy quan Cung Phụng, thôi chẳng cần vẽ, thiệt nhọc công ông ở phương xa đến đây. Kinh có nói rằng: Phàm vật có hình tướng đều là giả dối. Vậy cứ để bài kệ ấy cho người trì tụng. Cứ y theo bài kệ ấy mà tu hành thì khỏi đọa vào đường ác, y theo bài kệ ấy tu hành thì ích lợi lớn.

    Ngũ Tổ dạy các môn nhân đốt nhang lễ kỉnh, bảo cả thảy tụng bài kệ ấy thì lần lần thấy tánh. Các môn nhơn tụng kệ đều khen thật hay.

    Đến canh ba, Ngũ Tổ kêu Thần Tú vào nhà, hỏi rằng:

    - Bài kệ ấy phải của ngươi làm ra chăng?

    Thần Tú đáp:

    - Thiệt Thần Tú nầy làm, nhưng kẻ đệ tử chẳng dám vọng cầu ngôi Tổ, chỉ mong Hòa Thượng từ bi xem coi đệ tử có chút trí huệ chăng?

    - Ngươi làm bài kệ ấy tỏ ra chưa thấy bổn tánh. Ngươi mới tới ngoài thềm cửa, chưa vào trong nhà. Cứ như chỗ thấy hiểu ấy mà tìm đạo Vô thượng Bồ Đề thì rõ ràng chưa thể được. Theo đạo Vô thượng Bồ Đề, hễ khi nghe nói pháp rồi, liền phải biết bổn tâm và thấy bổn tánh của mình. Tâm mình chẳng sanh chẳng diệt, trong cả thảy thời gian, niệm niệm liền thấy tánh. Đối với muôn pháp, tâm mình suốt thông, không ngưng trệ. Một pháp, mình thấy hiểu thấu chơn tướng, cả thảy các pháp, mình đều hiểu thấu chơn tướng. Đối với muôn cảnh, tâm mình như như, tâm như như tức là tâm chơn thật. Thấy như thế, ấy là thấy tánh Vô thượng Bồ Đề của mình.

    Ngươi hãy lui ra, suy nghĩ trong hai ngày, rồi làm bài kệ khác đem lại cho ta xem. Nếu bài kệ của ngươi vào đặng cửa Đạo. Ta sẽ truyền y pháp cho.

    Sư Thần Tú làm lễ rồi lui ra. Trải qua mấy ngày, Thần Tú làm kệ chẳng xong thì trong lòng hoảng hốt, thần ý bồi hồi dường như mê mộng, đi ngồi chẳng an vui.

    Cách hai ngày, có một tên đồng tử đi ngang qua phòng giã gạo, xướng tụng bài kệ ấy cho Huệ Năng nghe qua, biết bài kệ ấy chưa thấy bổn tánh.Tuy ta (Huệ Năng tự xưng) chưa được Ngũ Tổ chỉ dạy, chớ đã sớm biết đại ý, mới hỏi đồng tử rằng:

    - Tụng bài kệ gì vậy?

    Đồng tử đáp: - Người dã man nầy không hay biết chi hết. Đại Sư nói sự sống thác của người thế gian là việc lớn. Vì muốn truyền y pháp, nên Ngài dạy các môn nhơn mỗi người làm một bài kệ đem trình cho Ngài xem. Nếu ai hiểu đại ý, Ngài sẽ truyền y pháp cho, đặng làm Tổ thứ sáu. Thượng Tọa Thần Tú có biên một bài kệ vô tướng nơi vách nhà cầu phía Nam. Đại Sư dạy mỗi người đều phải tụng. Nếu y theo bài kệ ấy mà tu hành thì khỏi đọa vào đường ác, y theo bài kệ ấy mà tu hành thì có ích lợi lớn.

    Trả lờiXóa
  37. Huệ Năng nói: - Tôi cũng muốn tụng bài kệ ấy để kết nhơn duyên về đời sau. Nầy, thượng nhơn, tôi ở đây giã gạo đã trên 8 tháng mà chưa từng ra trước nhà Tổ, mong thượng nhơn dẫn tôi ra đến trước bài kệ ấy đặng lễ bái.

    Đồng tử dẫn ta đến trước bài kệ ấy. Ta nói:

    - Huệ Năng không biết chữ, xin thượng nhơn đọc dùm.

    Khi ấy có quan Biệt Giá ở Giang Châu, họ Trương tên Nhựt Dụng, cất tiếng đọc lớn. Huệ Năng nghe rồi bèn nói:

    - Tôi cũng có một bài kệ, mong ơn Biệt Giá biên dùm.

    Biệt Giá nói:

    - Ngươi cũng biết làm kệ nữa sao? Việc nầy ít có.

    Huệ Năng ngó quan Biệt Giá mà nói:

    - Muốn học đạo Vô thượng Bồ Đề thì chẳng nên khinh dể hàng sơ học. Có kẻ bực thấp mà thường thường phát sanh trí huệ rất cao, có người bực cao mà thường thường chôn lấp ý trí của mình, nếu khinh dể người ắt có tội vô lượng vô biên.

    Biệt Giá nói: - Ngươi hãy ngâm bài kệ đi, ta biên dùm cho. Nếu ngươi đắc pháp thì phải độ ta trước, chớ quên.

    Huệ Năng ngâm bài kệ rằng:
    Bồ đề bổn vô thọ, 菩提本無樹
    Minh cảnh diệc phi đài, 明鏡亦非臺
    Bổn lai vô nhất vật, 本來無一物
    Hà xứ nhạ trần ai? 何處惹塵埃

    GIẢI NGHĨA:
    Bổn: vốn là. Vô: không. Thọ: Thụ: cây.
    Minh cảnh: Minh kính: cái gương sáng. Diệc: cũng.
    Phi: không phải, chẳng phải. Đài: cái giá đỡ.
    Bổn lai: từ trước tới sau. Nhất vật: một vật.
    Hà xứ: xứ nào, chỗ nào? Nhạ trần ai: dính bụi trần.

    C.1: Bồ đề bổn vô thọ: Bồ đề vốn không cây,
    C.2: Minh cảnh diệc phi đài: Gương sáng cũng chẳng đài,
    C.3: Bổn lai vô nhất vật: Xưa nay không một vật,
    C.4: Hà xứ nhạ trần ai? Chỗ nào dính bụi trần?

    Trả lờiXóa
  38. Bồ đề bổn vô thọ, 菩提本無樹
    Minh cảnh diệc phi đài, 明鏡亦非臺
    Bổn lai vô nhất vật, 本來無一物
    Hà xứ nhạ trần ai? 何處惹塵埃
    Qua bốn câu kệ của Huệ Năng, chúng ta nhận thấy Ngài phủi sạch hết những gì của Thần Tú nêu ra.

    Thần Tú nói thân là cây bồ đề, là hình thức, thì Huệ Năng nói: Bồ đề không có cây, tức là không có hình thức.

    Thần Tú nói tâm là đài gương sáng, cũng là hình thức. Huệ Năng bác bỏ, nói gương sáng không cần đài, vì gương sáng là tự nó sáng chớ đâu phải đặt nó lên đài nó mới sáng.

    Huệ Năng không chấp nhận hình thức, Ngài chỉ rõ Bồ đề là tánh giác, tánh giác không có hình thức. Gương sáng là ví với tâm, tâm không cần đài, nó không có hình thức. Thần Tú còn bị mắc kẹt trong hình thức, tức là mắc kẹt trong sắc tướng.

    Thần Tú nói: Thời thời cần phất thức, vật sử nhạ trần ai, nghĩa là có hình thể mới cần lau chùi quét dọn, để cho đừng dính bụi dơ, cũng là hình thức. Huệ Năng bác bỏ hình thức ấy, nói: Bổn lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai? nghĩa là xưa nay không một vật thì chỗ nào dính bụi dơ? Tâm của mình xưa nay là trống không, không một vật nào trong đó, thì chỗ nào dính bụi bặm được?

    Huệ Năng đã biết rõ cái tâm thanh tịnh, không sanh diệt nên nói: Nó không một vật, không dính bụi bặm. Sư Thần Tú còn mắc kẹt trong cái tâm có hình tướng nên bị dính bụi, cần phải lau chùi.

    Biên bài kệ của Huệ Năng rồi, cả thảy đồ chúng đều kinh hãi, lấy làm lạ và khen hay. Mỗi người kêu nhau mà nói: Lạ thay! Chẳng đặng xét người bằng diện mạo, bấy lâu chúng ta đã phạm sai lầm khi sai khiến vị Bồ Tát xác phàm nầy.

    Ngũ Tổ thấy chúng nhơn kinh hãi và lấy làm lạ , e có kẻ hại Huệ Năng nên Ngũ Tổ lấy giày chà hết bài kệ và nói: "Bài kệ nầy cũng chưa thấy tánh." Đồ chúng đều cho là phải.

    Ngày kế, Ngũ Tổ lén đến chỗ phòng giã gạo, thấy Huệ Năng mang đá nơi lưng mà giã gạo (bởi mình gầy ốm nên phải mang đá cho đủ nặng mới đạp nổi cái chày). Ngũ Tổ nói:

    - Người cầu Đạo vì pháp quên thân, phải như thế sao?

    Rồi Ngũ Tổ hỏi: - Gạo trắng chưa?

    Huệ Năng đáp: - Gạo trắng đã lâu, chỉ còn thiếu sàng. (Ý nói đã thấy tánh, chỉ còn đợi truyền pháp).

    Ngũ Tổ lấy cây gậy gõ lên cối 3 tiếng, rồi bỏ đi.

    Huệ Năng liền hiểu ý Tổ Sư, đến canh ba vào thất. Ngũ Tổ lấy y pháp đắp cho ta (Huệ Năng), chẳng cho ai thấy, rồi nói Kinh Kim Cang cho ta nghe, đến câu: "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" (Không nên trụ vào chỗ nào mà sanh ra tâm ấy, để cái tâm trống không, chẳng trụ vào đâu cả).

    Huệ Năng nghe nói rồi liền tỏ sáng, biết rằng cả thảy muôn pháp chẳng lìa tánh mình, mới bạch với Tổ Sư rằng:

    Nào dè tánh mình vốn tự nhiên trong sạch,
    Nào dè tánh mình chứa đầy đủ muôn pháp,
    Nào dè tánh mình vốn không lay động,
    Nào dè tánh mình có thể sanh ra muôn pháp.

    Tổ Sư biết ta đã tỏ sáng bổn tánh, bảo Huệ Năng rằng:

    - Nếu chẳng biết bổn tâm thì học pháp vô ích; bằng biết bổn tâm và thấy bổn tánh mình, tức gọi trượng phu, là Phật, Thầy cõi Trời và cõi người vậy.

    Đến canh ba, Huệ Năng thọ pháp, chẳng có ai hay.

    Tổ Sư truyền phép Đốn giáo và y bát cho ta, dạy rằng:

    - Ngươi làm Tổ thứ sáu, hãy gìn giữ và nhớ lấy Đạo tâm của mình (hộ niệm), phải quảng độ chúng hữu tình và lưu truyền cái chánh pháp cho đời sau, đừng để đoạn tuyệt.

    Hãy nghe bài kệ của ta đây:

    KỆ:

    Hữu tình lai hạ chủng, 有情來下種
    Nhơn địa quả huờn sanh, 因地果還生
    Vô tình ký vô chủng, 無情既無種
    Vô tánh diệc vô sanh. 無性亦無生

    GIẢI NGHĨA:

    Hữu tình đến gieo giống,
    Nhờ đất quả lại sanh.
    Vô tình đã không giống,
    Không tánh cũng không sanh.

    LỜI GIẢI:

    Đại ý bài kệ nầy, Ngũ Tổ dạy Ngài Huệ Năng về việc truyền pháp.

    Hai câu trên bảo: Phàm những người hữu tình, nghĩa là có tánh giác ngộ thì nên truyền Phật pháp cho họ, vì họ có sẵn tánh giác ngộ, nghe pháp rồi ắt đặng chứng quả.

    Hai câu dưới lại dặn: Còn những người vô tình, không có giống Phật tánh, tức là chưa phát sanh tánh giác ngộ, thì chẳng nên truyền Phật pháp, vì họ không có tánh giác ngộ ắt không sanh quả Phật được.

    Trả lờiXóa
  39. Hoằng Nhẫn Tổ Sư lại nói:

    - Ngày xưa, Đạt Ma Tổ Sư mới tới xứ nầy, người ta chưa tin Phật pháp, nên phải truyền cái áo ấy để làm tín thể (vật để làm tin), nối truyền cho nhau từ đời nầy đến đời khác. Còn pháp thì lấy tâm truyền tâm, khiến cho người tự mình tỏ sáng, tự mình hiểu biết. Từ xưa, chư Phật chỉ truyền cái bổn thể (tức bổn tánh) là cội rễ của các pháp, và chỉ trao kín cái bổn tâm mà thôi. Áo là cái mối tranh giành, tới đời ngươi đừng truyền nữa. Nếu truyền cái áo ấy thì tánh mạng rất nguy. Hãy đi cho chóng kẻo có kẻ hại ngươi.

    Huệ Năng bạch Tổ: - Đi xứ nào?

    Tổ Sư nói: - Gặp Hoài (huyện Hoài Tập) thì ở lại, gặp Hội (huyện Tứ Hội) thì ẩn nương nơi đó.

    Canh ba, khi Huệ Năng lãnh y bát rồi thì bạch rằng:

    - Huệ Năng vốn là người ở Lãnh Nam, chẳng biết một con đường nào nơi núi nầy, làm sao ra đặng sông Cửu Giang?

    Ngũ Tổ nói: - Ngươi chẳng cần lo, để ta đưa ngươi đi.

    Tổ đưa Huệ Năng thẳng tới trạm Cửu Giang, bảo ta lên chiếc thuyền nhỏ, rồi Ngũ Tổ cầm chèo mà đưa.

    Huệ Năng nói:

    - Xin Hòa Thượng ngồi, để đệ tử chèo mới phải.

    - Ta độ, đưa ngươi mới phải. (chữ độ là đưa, cũng có nghĩa là cứu độ).

    - Lúc mê thì Tổ Sư độ, ngộ rồi thì tự độ lấy mình. Huệ Năng nầy sanh tại xứ dã man, giọng nói bất chánh, nhờ Tổ Sư truyền pháp, nay đã được tỏ sáng, thì chỉ nên lấy tánh mình mà độ mình mới phải.

    - Phải vậy! Phải vậy! Từ đây sắp sau, Phật pháp sẽ do ngươi truyền bá thạnh hành. Ngươi đi rồi, ba năm sau ta sẽ qua đời. Nay ngươi hãy đi, gắng sức qua hướng Nam, nhưng chẳng nên vội thuyết pháp, vì Phật pháp khó mở.

    Huệ Năng từ biệt Tổ Sư, đi qua hướng Nam, trong 2 tháng tới núi Đại Du Lãnh. (Huệ Năng đã được Ngũ Tổ truyền y bát để làm Lục Tổ, nhưng lúc đó Huệ Năng chỉ là một cư sĩ, chưa thọ pháp qui y nên vẫn chưa cạo tóc).

    Trả lờiXóa
  40. Khi Ngũ Tổ trở về, cách mấy ngày chẳng ra giảng đường. Các môn đồ có lòng nghi, bèn đến hỏi thăm:

    - Hòa Thượng có chút bịnh hay buồn chi chăng?

    Tổ nói: - Ta không có bịnh chi, nhưng y pháp đã về hướng Nam rồi.

    Đồ chúng hỏi: - Ai được truyền thọ?

    Tổ nói: - Huệ Năng được truyền thọ.

    Khi đó đồ chúng mới hay.

    Mấy trăm đồ chúng liền đuổi theo Huệ Năng muốn đoạt lại y bát. Có một tăng tên là Trần Huệ Minh, ngày trước làm chức Tứ phẩm Tướng Quân, tánh tình thô bạo, làm đầu chúng nhơn, đuổi kịp Huệ Năng. Huệ Năng ném y pháp lên tảng đá mà nói rằng: Cái áo nầy là vật làm tin, há dùng sức mà tranh được sao? Đoạn Huệ Năng ẩn mình trong đám cỏ tranh.

    Huệ Minh chạy đến, nắm áo dở lên mà không nhúc nhích, liền kêu lên rằng:

    - Hành giả, tôi vì pháp mà đến đây chớ chẳng vì áo.

    Huệ Năng bước ra, ngồi xếp bằng trên tảng đá. Huệ Minh làm lễ nói rằng:

    - Mong ơn Hành giả nói pháp cho tôi nghe.

    Huệ Năng nói:

    - Ông vì pháp mà đến đây, khá dứt hết trần duyên, chớ sanh niệm tưởng, tôi sẽ nói Phật pháp cho ông nghe.

    Lẳng lặng một hồi lâu, Huệ Năng nói: - Chẳng nghĩ việc lành, chẳng nghĩ điều dữ, chính trong thời gian đó, hãy đưa cho tôi xem cái bổn lai diện mục của Thượng Tọa Minh trước khi cha mẹ chưa sanh ra ông.

    (Hán văn:
    不思善不思惡正當興麼時還我明上座� �母未生時面目來.)

    Bất tư thiện, bất tư ác, chánh đương hưng ma thời hoàn ngã Minh Thượng Tọa phụ mẫu vị sanh thời diện mục lai.

    Huệ Minh nghe nói rồi, bỗng sáng tỏ ngay cái pháp căn bản bấy lâu nay tìm kiếm khắp bên ngoài muôn vật. Cái hiểu của ông bây giờ là cái hiểu của người uống nước nóng lạnh tự biết. Huệ Minh cảm động quá đến nỗi toát mồ hôi, trào nước mắt, rồi cung kính chắp tay làm lễ, bạch tiếp rằng:

    - Ngoài lời nói và ý chỉ mật nhiệm như trên, còn có ý chỉ nào mật nhiệm khác nữa không?

    Huệ Năng nói: - Điều tôi nói với ông chẳng phải là mật nhiệm, nếu ông hồi quang nội chiếu thì sẽ thấy chỗ mật nhiệm là ở nơi ông.

    Huệ Minh nói: - Tôi tuy ở tại Huỳnh Mai nhưng chưa xét biết cái bổn lai diện mục của mình, nay nhờ hành giả chỉ dạy cho biết, thì hành giả là thầy của Huệ Minh vậy.

    Huệ Minh làm lễ rồi trở xuống chơn núi, kêu bọn đồ chúng đuổi theo mà nói rằng: - Kiếm khắp các đường núi mà không thấy dấu vết gì cả, chúng ta phải đi đường khác.

    Bọn đồ chúng đều tin vậy và kéo đi nơi khác.

    Lục Tổ Huệ Năng đã nói một câu bất hủ: Thấy cái bổn lai diện mục trước khi cha mẹ sanh ra.

    Đó là một thông điệp hết sức mới mẻ, được công bố lần đầu tiên để khai diễn ra dòng sử Thiền vô tận. Ngài đã mở ra một chơn Trời mới cho pháp môn Thiền cổ truyền của Ấn Độ.

    Trả lờiXóa
  41. Huệ Năng, sau đến Tào Khê, lại bị bọn ác tìm theo, nên phải lánh nạn, ở chung với bọn thợ săn tại huyện Tứ Hội. Bọn thợ săn bảo ta giữ lưới, mỗi khi thấy có con vật nào vào lưới thì ta thả ra hết; mỗi khi tới bữa ăn thì ta lấy rau gởi luộc trong nồi thịt. Có người hỏi, ta bảo chỉ ăn rau luộc bên thịt mà thôi.

    Mười lăm năm sau, một ngày kia, ta suy nghĩ đã biết hết thời kỳ ẩn dật, đến thời kỳ hoằng pháp, ta bèn đi tới chùa Pháp Tánh tại Quảng Châu, gặp Ấn Tông Pháp sư đang giảng Kinh Niết Bàn. Lúc ấy có luồng gió thổi động lá phướn, một tăng nói: Gió động. Một tăng khác nói: Phướn động. Hai đàng tranh luận hoài chẳng ai chịu thua ai.

    Huệ Năng bước tới nói: Chẳng phải gió động, chẳng phải phướn động, ấy là tâm của nhơn giả động.

    Chúng nhơn nghe ta nói thế đều kinh hãi. Ấn Tông liền mời ta vào chùa, ngồi vào chỗ cao hơn hết, và cầu hỏi những nghĩa lý uyên áo.

    Huệ Năng trả lời với ngôn ngữ rất giản dị, nghĩa lý thích đương, mà chẳng do văn tự. Ấn Tông nói rằng:

    - Hành giả hẳn chẳng phải người thường. Đã lâu, tôi có nghe nói pháp y của Huỳnh Mai Ngũ Tổ đã về phương Nam, có phải về tay Hành giả chăng?

    Huệ Năng đáp: - Tôi đâu dám. (Lời nói khiêm nhượng)

    Nhơn đó, Ấn Tông làm lễ, xin ta đem y bát cho đại chúng xem. Sau đó Ấn Tông hỏi:

    - Đức Ngũ Tổ khi phú chúc, Ngài truyền thọ thế nào?

    Huệ Năng nói:

    - Ngài không có truyền thọ chi, chỉ luận môn Kiến Tánh. Ngài chẳng luận phép Thiền định và phép Giải thoát.

    Ấn Tông nói:

    - Sao chẳng luận phép Thiền định và phép Giải thoát?

    Huệ Năng đáp: - Vì hai phép ấy chẳng phải là Phật pháp, Phật pháp là pháp chẳng hai.

    Huệ Năng giảng giải cho Ấn Tông Pháp sư nghe tại sao Pháp chẳng hai, tánh chẳng hai, ấy là Phật tánh đó.

    Ấn Tông nghe giảng xong thì vui mừng chấp tay nói:

    - Sự giảng kinh của tôi tỉ như ngói gạch, chỗ luận nghĩa của nhơn giả như vàng ròng.

    Nhơn đó, Ấn Tông Pháp sư xuống tóc cho Huệ Năng, nguyện thờ ta làm thầy.

    Ngày 15-Giêng-Bính Tý, đời vua Đường Cao Tông nguyên niên, Ấn Tông Pháp sư nhóm hết tứ chúng để làm lễ xuống tóc cho Huệ Năng.

    Ngày 8-2-Bính Tý năm đó, Ấn Tông Pháp sư lại nhóm hết các vị danh đức mà truyền thọ Cụ Túc giới cho Huệ Năng.

    Trí Quang Luật Sư ở Tây Kinh làm Thọ Giới Sư.

    Huệ Tịnh Luật Sư ở Tô Châu làm Yết Ma.

    Thông Ứng Luật Sư ở Kinh Châu làm Giáo Thọ.

    Kỳ Đà La Luật Sư ở Trung Thiên Trước thuyết giới.

    Mật Đa Tam Tạng ở Tây Thiên Trước chứng giới.

    Trả lờiXóa
  42. Nguyên cái Giới đàn nầy do Sư Câu-Na-Bạt-Đà-La Tam Tạng ở triều nhà Tùy đứng ra sáng lập và có dựng bia ghi lời sấm truyền rằng: "Sau nầy có một vị Bồ Tát xác phàm thọ giới tại chỗ nầy."

    Qua năm sau, Lục Tổ Huệ Năng từ giã đồ chúng, đến chùa Bửu Lâm tại Tào Khê. Khi ấy, Ấn Tông và đồ chúng có trên ngàn người, đưa Lục Tổ đến thẳng xứ Tào Khê. Lúc đó, Thông Ứng Luật Sư ở Kinh Châu và các học giả, kể có 100 người, đều theo ở với Lục Tổ.

    Chùa Bửu Lâm ở Tào Khê chật hẹp, không đủ chỗ cho tăng chúng. Lục Tổ muốn mở rộng ra, nên đến viếng một người giàu có trong vùng là Trần Á Tiên, nói rằng:

    - Bần tăng đến đây cầu thí chủ cho một khoảnh đất vừa trải tấm tọa cụ nầy được chăng?

    Trần Á Tiên nói:

    - Tấm tọa cụ của Hòa Thượng bao lớn?

    Lục Tổ lấy tấm tọa cụ ra cho Trần Á Tiên xem.

    Trần Á Tiên đáp: - Được.

    Lục Tổ lấy tấm tọa cụ phóng ra, bao trùm hết 4 cảnh Tào Khê, lại có 4 vị Thiên Vương hiện thân ngồi trấn 4 hướng.

    Trần Á Tiên nói:

    - Tôi biết pháp lực của Hòa Thượng thật quảng đại, nhưng vì phần mộ của Cao Tổ tôi đều nằm trong khoảnh đất nầy, ngày sau nếu có cất tháp, xin giữ lại các phần mộ, còn giai dư, tôi hỷ hiến hết để làm ngôi Tam Bảo. Lại chỗ đất nầy có mạch núi Sanh Long và non Bạch Tượng, vậy chỉ nên bình Thiên, chẳng nên bình địa. (Chỗ thấp cất cao, chỗ cao cất thấp, chẳng nên đục đá, e hư mạch núi).

    Về sau, chùa kinh dinh kiến trúc, nhứt nhứt đều làm y theo lời thỉnh cầu của Trần Á Tiên.

    Từ khi hai vị Tông chủ Huệ Năng và Thần Tú phân rẽ hai đường Nam, Bắc, để hóa độ, hai Ngài vẫn không phân biệt nhơn ngã, nhưng các môn đồ của Đại Sư Thần Tú lúc nào cũng muốn tiêu diệt Huệ Năng để tôn Thần Tú lên ngôi Lục Tổ. Đương nhiên Đại Sư Thần Tú phải biết việc đó, nhưng sử sách không thấy nói Đại Sư Thần Tú ngăn cấm việc đó.

    Bởi vậy, các đại đệ tử của Đại Sư Thần Tú bí mật mướn tên Hạnh Xương đến Tào Khê hành thích Huệ Năng.

    Lục Tổ Huệ Năng có thần thông nên biết rõ việc ấy.

    Đêm ấy, Tổ Sư lấy 10 lượng vàng để sẵn bên chỗ ngồi. Lúc khuya, Hạnh Xương lẽn vào phòng của Lục Tổ, Tổ Sư để Hạnh Xương chém ba lần mà không sao cả. Tổ sư nói:

    - Gươm chánh không dùng vào việc tà, gươm tà không dùng vào việc chánh. Ta chỉ thiếu ngươi vàng chớ không thiếu nợ mạng.

    Hạnh Xương hoảng kinh ngã ra bất tỉnh hồi lâu mới tỉnh lại, cầu khẩn Tổ Sư tha mạng và nguyện xin xuất gia.

    Tổ sư bảo:

    - Ngươi hãy lấy vàng đi đi. Một ngày kia, ngươi thay hình đổi dạng rồi đến đây ta sẽ độ ngươi.

    Một thời gian khá lâu về sau, Hạnh Xương đã đi tu rồi, nhớ lại lời của Tổ Sư, trở lại Tào Khê vái sư, tu hành tinh tấn, được Tổ Sư đặt pháp danh là Chí Triệt.

    . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

    Tổ Sư cho biết gần đến ngày Tổ Sư nhập diệt. Thượng Tọa Pháp Hải bạch hỏi rằng:

    - Sau khi Tổ Sư nhập diệt thì y pháp truyền lại cho ai?

    Tổ Sư đáp: - Các lời thuyết pháp của ta từ lúc ở chùa Đại Phạm đến nay đều phải biên chép mà lưu hành, đề tên là Pháp Bửu Đàn Kinh. Các ngươi hãy gìn giữ, thay thế nhau mà truyền thọ độ chúng sanh. Hãy y theo lời kinh nầy mà nói, ấy là Chánh pháp. Nay ta nói pháp cho các ngươi nghe mà chẳng giao y pháp là bởi tín căn của các ngươi đã thuần thục, chắc chắn không nghi, có thể kham nổi việc lớn. Lại cứ y theo bài kệ của Đạt Ma Tổ Sư để lại thì y pháp chẳng nên truyền nữa.

    Bài kệ ấy như vầy:
    Ngô bổn lai tư độ, 吾本來斯土
    Truyền pháp cứu mê tình, 傳法救迷情
    Nhứt hoa khai ngũ diệp, 一花開五葉
    Kết quả tự nhiên thành. 結果自然成

    GIẢI NGHĨA:
    Ngô: ta. Bổn: vốn. Lai: đến. Tư: cái nầy. Độ: Thổ: đất.
    Pháp: giáo lý. Mê tình: chúng sanh mê muội.
    Khai: nở. Ngũ: năm. Diệp: lá, tờ giấy.
    Tự nhiên: Trời làm như thế, không do nơi người.

    C.1: Ngô bổn lai tư độ: Ta vốn tới đất nầy,
    C.2: Truyền pháp cứu mê tình: Truyền pháp cứu người mê
    C.3: Nhứt hoa khai ngũ diệp: Một bông nở năm cánh,
    C.4: Kết quả tự nhiên thành: Kết quả tự nhiên thành.

    Trả lờiXóa
  43. Ngày 3-8-Quí Sửu (713) vào đời vua Đường Huyền Tông, tại chùa Quốc Ấn, sau khi thọ trai rồi, Lục Tổ kêu các môn đệ đến bảo rằng: - Các ngươi hãy theo ngôi thứ mà ngồi, ta sắp từ biệt chúng ngươi.

    Tổ Sư nói bài kệ: Tự Tánh Chơn Phật, rồi dặn rằng:

    - Chúng ngươi ở lại, chẳng nên theo thế tình mà buồn khóc ủ ê, hoặc thọ sự điếu vấn của người, hoặc mình mặc hiếu phục. Nếu như thế thì chúng ngươi chẳng phải là đệ tử của ta, vì đó chẳng phải là chánh pháp. Người biết bổn tâm và thấy bổn tánh mình thì tánh không động không tịnh, không sanh không diệt, không đi không lại, không phải không quấy, không ở chỗ nào, cũng không dời đổi. Ta sợ e chúng ngươi còn mê muội, không hiểu ý ta, nên nay ta dặn lại chúng ngươi, đặng cho chúng ngươi thấy tánh.

    Sau khi ta diệt độ, phải y theo pháp ấy mà tu hành như lúc ta còn tại thế. Nếu làm trái lời ta dạy, dầu ta ở tại thế cũng không ích gì.

    Sau đó, Tổ Sư ngồi thiền định, đến canh ba thì diệt hóa, thọ 76 tuổi.

    Các môn nhơn làm tháp cho Lục Tổ ở Tào Khê, làm bia ghi lại đạo hạnh của Tổ Sư để làm kỷ niệm như vầy:

    "Tổ Sư xuân thu bảy mươi sáu. Hai mươi bốn tuổi đã được truyền y, ba mươi chín tuổi xuống tóc, Tổ Sư thuyết pháp 37 năm. Trong các môn nhơn của Ngài có 43 người đạt đặng tôn chỉ và nối truyền chánh pháp, còn những người ngộ đạo siêu phàm chẳng biết bao nhiêu mà kể."

    Còn cái tín y của Đạt Ma Tổ Sư truyền lại, cái áo Bá Nạp và cái bửu bát (của vua Trung Tông tặng), cùng cái chơn tượng của Tổ Sư do Phương Biện nắn, và cả thảy các món đạo cụ, đều giao cho người coi tháp xem sóc và giữ gìn vĩnh viễn nơi đạo tràng tại chùa Bửu Lâm xứ Tào Khê. Các món nầy cất giữ để lưu truyền với quyển Pháp Bảo Đàn Kinh đặng tỏ bày cái tôn chỉ của Tổ Sư cùng mở mang Tam Bảo mà phổ độ quần sanh.

    Trả lờiXóa
  44. TỨ GIÁO THẤT CHƠN TRUYỀN
    THI
    HUỆ đức ban ra khắp thế gian,
    MINH tường chân tánh tại Tây phang,
    CHƠN nguơn thanh tịnh gồm Tam bửu,
    TIÊN xuất thần quang tại Niết bàn.

    Bần đạo chào chư phận sự, tịnh tâm nghe bần đạo thuyết minh về TỨ GIÁO THẤT CHƠN TRUYỀN, cho người đời tìm hiểu để biết tà chánh, hầu đi đến hội Đại Đồng Tôn giáo không có phân các triết lý dưới trần gian gồm tinh ba lại một để làm triệu chứng, đủ kinh nghiệm hoàn toàn cho nhân loại đủ đức tin mà học hỏi. Từ trước đến giờ có Tam Giáo Thánh Nhân hoằng khai dạy Đạo, tùy theo phong trào thời đại mà thuyết lý phổ thông, cho dân sanh tỉnh ngộ.

    Tiên Giáo có Lão Tử
    lâm phàm thuyết hư vô hoằng khai đạo pháp để dạy đời, lần lần nhân sanh sai lạc, dùng bùa chú của Tiên gia mà trừ tà ếm quỉ, bày binh bố trận đồng cốt lăng xăng, làm mất chơn truyền Tiên Giáo.

    Phật Thích Ca giáng sanh nhằm thời Trung Cổ tại Ấn độ, đời nhà Châu vua Chiêu Dương, dùng thuyết vô vi chơn truyền dạy đạo đắc thành xá lợi kim thân, dân sanh thành Phật cũng nhiều. Rồi cũng vì danh lợi câu nhử nhân tâm xa lần chánh giáo, bày ra thinh âm sắc tướng, chuông mỏ kệ kinh, lầu kho công khố, lý chơn mờ mịt, hành theo Tiểu Thừa, tụng kinh cúng dường hằng ngày chớ tâm pháp chơn truyền đều mất hết.

    Nho Giáo có Khổng Tử lâm phàm nhằm đời Đông châu Liệt quốc,
    qui nguyên nhằm buổi loạn ly, vua yếu, tôi mạnh, giặc giã lan tràn, năm giềng xiêu đổ. Sang Trần qua Thới, mở đạo dạy dân cho biết giềng mối Ngũ luân: vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bậu bạn, tình nghĩa làm đầu. Nho Giáo thạnh hành một lúc, rồi dân sanh lần xa đạo lý, dùng chữ học hành thi phú để ra làm quan, mê sa vật chất, làm sai lạc lý chánh Nho gia.

    Bên Tây phương có Thánh đạo ra đời, Jésus giáng sanh dạy đạo khắp cả năm châu.
    Nay nhằm buổi Hạ nguơn, thời kỳ mạt kiếp, bốn nền chân giáo đã thất kỳ truyền, dân sanh không phù hạp. Thời đại đương kim, dân sanh xu hướng theo đường văn minh vật chất, không còn biết chi đến luật Trời, cơ báo ứng, dùng khoa học mà chế ra các thứ máy móc tối tân, cơ khí để tàn sát lẫn nhau mà giật giành non sông đất nước thành ra núi xương sông máu, nên Cao Đài Giáo dùng thuyết Trung Hòa tùy theo trình độ trào lưu của dân tộc mà dạy Đạo tại xứ Việt Nam, mở rộng chơn truyền phổ thông giáo lý cho dân Việt Nam noi theo tu hành, rồi lần lần truyền ra khắp năm châu cho nhân sanh hưởng ứng.

    Trả lờiXóa
  45. THI BÀI
    Thơ trong thơ
    Cao siêu lắm huyền vi đạo pháp,
    Đài giáo dân phù hạp kỳ ba,
    Tôn nghiêm tức lý dung hòa,
    Giáo khai tôn pháp cải tà qui chân.
    Thuyết chơn lý nghe đờn tỉnh mộng,
    Minh cơ mầu đổ trống giác mê,
    Dạy dân thức tỉnh đề huề,
    Cơ thiên đã định quay về Thượng nguơn.
    Siêu ba cõi tuần hoàn chuyển lập,
    Thoát ngoài vòng dồn dập sông mê,
    Thần Tiên chỉ ngõ quay về,
    Tinh tường triết lý điểm đề quần sanh.
    Gom nhau lại lập thành quốc đạo,
    Vào trường thi đốn giáo thượng thừa,
    Mau lo trở bước kẻo trưa,
    Toan lo đến bến đò xưa vượt ngàn.
    Giải tứ tường tan hoang bốn vách,
    Phá thành sầu phủi sạch phàm tâm,
    Bốn tường vây chặt tối tăm,
    Rào chung nhân loại giam cầm mê mang.
    Gìn đạo đức nắm phăng hưởng ứng,
    Tròn tâm cang sửa dựng cuộc đời,
    Quy gồm đạo đức năm nơi,
    Giới răn gìn trọn luật Trời không vương.
    Giồi bửu pháp là đường diệt khổ,
    Trau Nguơn thần tìm chỗ an nhàn,
    Tâm trung mở khiếu huyền quang,
    Tình đời mộng ảo chớ màng chớ mê.
    Ngày đắc đạo dựa kề Tiên vị,
    Đêm cần lo luyện kỹ trúc cơ,
    Học thông máy nhiệm đơn thơ,
    Tập rèn cơ thể huyền cơ sẽ tường.
    Sửa bổn tánh thuần dương êm lặng,
    Mình ngồi ngay mắt nhắm vào trong,
    Diệt thông quá khứ mộng lòng,
    Trừ tâm hiện tại ước mong hoang đường.
    Lục thông suốt tỏ tường minh huệ,
    Dục lửa lòng tâm để an nhiên,
    Thất muôn niên lẻ Đạo truyền,
    Tình trường bể loạn mau liền thoát ra.
    Tâm tỉnh ngộ ái hà diệt tận,
    An một lòng tinh tấn hôm mai,
    Trần gian là chốn đọa đày,
    Ai người tỉnh ngộ kiếp nầy cần lo.
    Đổi Lạc thơ Hà đồ đắc đạo,
    Lại Non bồng chơn đạo ngao du,
    Thiên nhiên cảnh lạc trời thu,
    Đàng tiên nẻo Phật công phu tỏ tường.
    Vô vi Đạo là phương thoát tục,
    Phiền ba đời giục thúc mê say,
    Vô duyên phải chịu đọa đày,
    Não nhơn xa lánh thiện tài lần lên.
    An nhiên hỡi! Lòng bền son sắt,
    Nhàn thì lo chỉ dắt theo Thầy,
    Thanh thanh nguyệt lặn về Tây,
    Tân dân sửa lại gặp ngày Thuấn Nghiêu.
    Xa cảnh khổ, tiêu điều thê thảm,
    Mùi trần ai giả tạm chớ say,
    Chung lo đạo đức cho đầy,
    Đỉnh trần vội giục là ngày biến thiên.
    Đai một bầu hạo nhiên chi khí,
    Cân đại thừa huyền bí hư vô,
    Giác minh tránh khỏi mê đồ,
    Quang huy chói rạng điểm tô Nguơn thần.
    Êm như nước trong ngần không dợn,
    Lặng trang bằng chẳng dợn, chẳng xao,
    Tinh tường giáo lý thanh cao,
    Thần quang phản chiếu giồi trau đắc thành.
    Phát tâm nguyền đường lành bước đến,
    Minh cơ mầu thoát bến mê tân,
    Qui nguyên lại một tinh thần,
    Y như khuôn mẫu sửa lần chơn tâm.
    Tam bửu là huyền thâm báu trọng,
    Bửu châu linh gióng trống ba hồi,
    Ngũ châu rõ biết đạo Trời,
    Hành y nhứt luật gặp đời thuần phong.
    Sang Thượng cổ con Hồng an hưởng,
    Qua Tam-kỳ bành trướng Nhơn hoàng,
    Nhị châu sắp đặt lớp lang,
    Bộ dân giáo hóa Nam Bang gội nhuần.
    Đắc đại đạo ba dân vui vẻ,
    Thành Nam giồi cực thượng viên minh,
    Đạo là qui hiệp khí tinh,
    Chơn truyền thọ ký, Huỳnh đình rèn tu.
    Dầu khô cạn đèn lu phải tắt,
    Cho chơn thần bế tắc đơn đài.
    Cực lòng mựa chớ đơn sai,
    Khổ tâm rán chịu đôi ngày siêu thăng.
    Chi vô vi hóa hoằng dạy thế,
    Sờn tấc gang chớ để lưng vơi,
    Âm dương ngưng kết hạp thời,
    Dương sanh âm tận, số trời định phân.
    Tương dưa giữ ân cần chớ đổi,
    Hiệp đơn điền tứ cội Tam gia,
    Triều thiên bái Phật ta bà,
    Ngươn ba sửa dựng đạo nhà thạnh hưng.
    Diên hống kết coi chừng dè dặt,
    Thành đạo rồi sẽ đắc kim thân,
    Tam hoa tụ đảnh xuất thần,
    Hoa khai thấy Phật, lại gần Ngọc kinh.
    Xuất thánh thai thần tinh gom một,
    Hiện kim quang đến tột mây lành,
    Tam tinh hóa hiện đường lành,
    Thanh thanh vi diệu đắc thành tiên gia.
    Càn tam liên chia ba thượng hạ,
    Khôn âm thầm sáu ngã luân hồi,
    Luân hồi muôn kiếp nổi trôi,
    Chuyển luân quanh lộn muôn đời khó ra.
    Vận châu thiên quây mà bánh pháp,
    Hành nội công tương tiếp điểm mầu,
    Châu lưu chơn khí tóm thâu,
    Thân tâm đắc ngộ, đạo mầu minh quang.
    Lão chỉ dạy trung đàn phận sự,
    Từ tâm lo gìn giữ cơ quan,
    Giã thân cõi tạm chớ màng,
    Kiếu từ phận sự vượt thoàn về Tây...

    Trả lờiXóa


♦ Mời bạn gửi Nhận xét của mình. Bạn nên có tài khoản Blogger-Google . Bạn vui lòng gõ tiếng Việt có dấu bằng cách dùng Unikey hay Vietkey .

♦ Bấm vào Xem trước [Preview] bên dưới khung nhận xét nếu muốn xem trước comment đã viết, trước khi post [đăng]. Tương tự, bấm vào Đăng ký qua email [Subscribe by email] để đăng ký theo dõi nhận xét của bài này.

♦ Các bạn tự chịu trách nhiệm với Nhận xét của mình. Nhận xét để phản hồi, đánh giá, góp ý.... suy nghĩ của bạn. Ban biên tập có thể biên tập nội dung comment của bạn theo tiêu chí chung.